96.500 doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường chỉ trong 4 tháng đầu năm 2025. Một con số không chỉ lạnh lùng mà còn gây lo âu. Nếu mỗi doanh nghiệp tương đương với 5 - 10 lao động, thì ít nhất nửa triệu người đã bị ảnh hưởng trực tiếp. Con số đó không chỉ là thống kê kinh tế, mà là một bức tranh xám màu cho những giấc mơ kinh doanh, những gia đình đang gồng gánh, và cả niềm tin vào môi trường làm ăn.

dung-de-co-che-chinh-sach-buc-tu-doanh-nghiep-1749433853.jpg

1/“Thời của thuế” - Vì sao?

Người ta gọi tên hiện tượng này là “Thời của thuế”, thời mà gánh nặng thuế, phí, nghĩa vụ tài chính đã vượt ngưỡng chịu đựng của doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV), đặc biệt là khu vực kinh tế tư nhân trong nước, vốn đã èo uột từ sau đại dịch, lại tiếp tục bị bào mòn bởi chính sách và cơ chế thực thi. Sau đây là những lý do chính:

Chi phí thuế - phí không chính thức tiếp tục “ăn mòn” sức chịu đựng. Nhiều doanh nghiệp than rằng: họ không chết vì không có đơn hàng, mà chết vì không trụ nổi với nghĩa vụ tài chính ngày càng tăng, cả hợp pháp lẫn phi chính thức.

• Thuế thu nhập doanh nghiệp 20%  nhưng không phải doanh nghiệp nào cũng lãi để đóng.
• Thuế giá trị gia tăng (VAT) tạm thu trước rồi hoàn sau, khiến doanh nghiệp mất vốn lưu động.
• Phí bảo hiểm xã hội, phí công đoàn, các khoản đóng bắt buộc theo lương khiến chi phí nhân công đội lên rất cao.
• Lệ phí , phí môi trường, phí kiểm định, phí “giấy phép con” tạo thành một “ma trận hành chính”.

Nhiều doanh nghiệp nhỏ mô tả: “Chỉ cần trễ một tờ khai, thiếu một con dấu, là bị phạt như doanh nghiệp lớn. Mà tiền thì không có, lãi thì âm, vẫn phải nộp nghĩa vụ như thường.”

2/ Chính sách “siết chặt” trong lúc thị trường yếu, nghịch lý kinh tế:

• Khi doanh nghiệp cần “máy trợ thở”, chính sách lại chọn thời điểm này để thắt van, kiểm tra, thanh tra, thu thuế “truy hồi”.
• Những gói hỗ trợ tài chính (giảm thuế, miễn chậm nộp…) được ban hành nhỏ giọt, thủ tục nhiêu khê, nhiều DNNVV không tiếp cận được.

3/ Thị trường tiêu dùng suy yếu, doanh nghiệp mất đầu ra:

• Hàng hóa làm ra không bán được, sức mua trong dân giảm mạnh.
• Xuất khẩu gặp khó, đơn hàng quốc tế giảm, thị trường nội địa thì bị hàng nhập “đè”.
• Nhiều ngành nghề (như bất động sản, xây dựng, du lịch, bán lẻ) đang nằm trong chu kỳ co hẹp kéo dài.

Trong bối cảnh ấy, doanh nghiệp cần được giảm gánh, chứ không phải gánh thêm.

4/ Thiếu cơ chế bảo vệ, thua thiệt luôn thuộc về doanh nghiệp nhỏ:

• Nhiều doanh nghiệp nhỏ không chịu nổi cạnh tranh với các doanh nghiệp có “sân sau”, có ưu đãi ngầm.
• Mỗi lần có biến động tỷ giá, lãi suất, hoặc chính sách thay đổi đột ngột, doanh nghiệp nhỏ luôn là bên thiệt đầu tiên.

Đây là hệ quả của một nền kinh tế mất cân bằng thể chế, nơi ai thân ai mạnh thì sống, còn doanh nghiệp chân chính phải tự lo sinh tồn.

5/ Không thể chỉ đổ lỗi cho “khó khăn khách quan”:

Vấn đề ở đây không chỉ là thị trường suy thoái, mà là môi trường kinh doanh “cứng” và thiếu bao dung với những người yếu thế:

• Chính sách quản lý thuế mang tư duy thu ngân sách, thay vì nuôi dưỡng nguồn thu.
• Văn hóa công vụ trong nhiều nơi vẫn thi hành mệnh lệnh, không đặt mình vào vị trí người làm ăn đang thoi thóp.
• Việc “truy thu”, “áp chỉ tiêu”, “kiểm tra diện rộng”… trong lúc doanh nghiệp đã đuối, khiến họ thà rút khỏi thị trường còn hơn phá sản trong nợ nần.

6/ Lời cảnh tỉnh:

Khi một nền kinh tế đẩy doanh nghiệp nhỏ ra khỏi cuộc chơi, tức là đang tự bào mòn khả năng tạo ra của cải, việc làm và động lực phát triển.

Không có doanh nghiệp nhỏ thì không có sự năng động, không có cạnh tranh lành mạnh, và cũng không có tương lai bền vững.

Đừng để “thời của thuế” trở thành “thời tàn của doanh nghiệp”.

Hãy thở cùng họ, sống cùng họ, chứ đừng để họ chết rồi mới nghĩ đến cứu. Vì cứu lúc đó… là để làm gì?

Nguồn: Nguyễn Quốc Chính