Giai đoạn 2009–2016, Việt Nam là nước xuất khẩu ròng dầu thô. Lượng xuất khẩu duy trì từ 500 - 700 triệu USD /tháng, đặc biệt cao trong các năm 2011–2014 khi có những tháng chạm tới 1 tỷ USD xuất khẩu dầu. Trong khi đó, nhập khẩu gần như bằng 0, khiến cán cân ròng luôn dương.
vào giai đoạn 2017–2018, mọi thứ bắt đầu thay đổi. Xuất khẩu dầu thô (đường màu xanh) giảm nhanh, nhiều tháng tụt xuống dưới 500 triệu USD, trong khi nhập khẩu đầu thô (đường màu đỏ) mạnh hơn.
Từ 2019 đến 2025 đã ngày càng rõ ràng sự chuyển dịch Việt Nam từ nước xuất khẩu ròng dầu thô đã trở thành nước nhập khẩu ròng dầu thô.
Xuất khẩu dầu thô duy trì ở mức thấp, thường dưới 400 nghìn USD/tháng. Ngược lại, nhập khẩu tăng vọt, có thời điểm vượt quá 1 tỷ đô. Xuất nhập khẩu ròng (đột màu xám) không chỉ chuyển sang âm mà còn lao dốc mạnh, đặc biệt có tháng nhập siêu gần 1 tỷ đô
Vậy là từ một quốc gia khai thác để xuất khẩu, Việt Nam đang chuyển dần sang nhập khẩu để phục vụ nhu cầu lọc hóa dầu trong nước. Đó là bước ngoặt quan trọng trong cấu trúc ngành dầu khí.
Vậy điều gì đã dẫn tới sự thay đổi ngoạn mục này?
Trước hết, các mỏ dầu lớn như Bạch Hổ, Rồng hay Đại Hùng đều đã hoạt động nhiều năm, trữ lượng giảm dần mà không có những mỏ mới đủ lớn thay thế.
Thứ hai, là khi các nhà máy lọc dầu như Dung Quất và Nghi Sơn đi vào hoạt động, nhu cầu tiêu thụ dầu thô trong nước tăng lên, không cần xuất khẩu
Cuối cùng là đi theo định hướng về chính sách Việt Nam ưu tiên phát triển ngành lọc hóa dầu trong nước, tăng giá trị gia tăng thay vì chỉ bán dầu thô giá thấp.
Cũng cần phải nói thêm hai nghịch lý của ngành dầu khí Việt Nam.
Thứ nhất là việc vừa xuất khẩu vừa nhập khẩu dầu thô. Năm 2021, Việt Nam xuất 3,1 triệu tấn nhưng lại nhập tới 9,9 triệu tấn dầu thô.
Bởi vì không phải dầu khai thác trong nước nào cũng phù hợp với công nghệ lọc dầu nội địa. Dung Quất thiết kế cho dầu ngọt nhẹ trong nước, nhưng vẫn phải nhập khẩu khoảng 20% dầu phù hợp hơn. Nghi Sơn sử dụng 100% dầu từ Kuwait lại hoàn toàn dựa vào nhập khẩu.
Điều này khiến Việt Nam vừa xuất khẩu dầu vừa phải nhập dầu nước ngoài, tạo nên vòng lặp đặc biệt trong chuỗi cung ứng.
Nghịch lý thứ hai là vừa sản xuất, vừa xuất khẩu, vừa nhập khẩu xăng dầu.
Các nhà máy trong nước có thể sản xuất nhiều loại xăng dầu, nhưng chưa chắc phù hợp với nhu cầu nội địa. Có loại dư thừa thì xuất khẩu, có loại thiếu thì nhập về. Ví dụ như: Việt Nam có thể dư thừa một số loại xăng dầu ( xăng Ron 92 hoặc dầu FO) trong khi lại thiếu các loại khác (như xăng Ron 95, dầu DO chất lượng cao), buộc phải nhập khẩu bổ sung những loại thiếu hụt này từ nước ngoài,
Ngoài ra, công suất lọc dầu trong nước chỉ đáp ứng khoảng 70% nhu cầu phần còn lại phải nhập khẩu, đặc biệt khi nhà máy bảo trì hoặc nhu cầu tăng đột biến.
Liệu ngành dầu khí có được thúc đẩy để trở lại thời kỳ mũi nhọn như trước đây, nếu giá dầu tiếp tục lên cao ?
-----------------
Cre:Trương Đắc Nguyên