Một đòn bẩy bất cân xứng được Trung Quốc dùng ngày càng nhiều - lần đầu sử dụng là năm 2010 với Nhật - là các lệnh hành chính nhằm hạn chế hoặc ngừng hẳn xuất khẩu đối với các loại khoáng sản chiến lược (critical minerals) vốn là đầu vào quan trọng cho các hoạt động sản xuất công nghiệp và quốc phòng.

𝗧𝗮̣𝗶 𝘀𝗮𝗼 𝗸𝗶𝗲̂̉𝗺 𝘀𝗼𝗮́𝘁 𝘅𝘂𝗮̂́𝘁 𝗸𝗵𝗮̂̉𝘂 𝗸𝗵𝗼𝗮́𝗻𝗴 𝘀𝗮̉𝗻 𝗰𝗵𝗶𝗲̂́𝗻 𝗹𝘂̛𝗼̛̣𝗰 𝗹𝗮̣𝗶 𝘁𝗿𝗼̛̉ 𝘁𝗵𝗮̀𝗻𝗵 𝗺𝗼̣̂𝘁 𝗯𝗶𝗲̣̂𝗻 𝗽𝗵𝗮́𝗽 𝘁𝗿𝗮̉ đ𝘂̃𝗮 𝘁𝗵𝘂̛𝗼̛𝗻𝗴 𝗺𝗮̣𝗶 𝗰𝗵𝘂̉ 𝘆𝗲̂́𝘂 𝗰𝘂̉𝗮 𝗧𝗿𝘂𝗻𝗴 𝗤𝘂𝗼̂́𝗰?

Kiểm soát xuất khẩu khoáng sản chiến lược cung cấp cho các nhà hoạch định chính sách Trung Quốc một mức độ đòn bẩy bất đối xứng hiếm có: chúng cực kỳ hiệu quả trong việc gây ra rủi ro và tác động đáng kể cho Mỹ và các tác nhân vi phạm khác với tác hại tương đối nhỏ cho Trung Quốc. Điều này hoàn toàn trái ngược với thuế quan bao trùm, gây ra tác hại kinh tế trực tiếp, đáng kể cho cả người tiêu dùng và nhà sản xuất của cả hai bên. Bắc Kinh đã cân bằng các mức thuế quan có hại lẫn nhau để có sự đáp trả trực tiếp, nhưng mặt khác lại thích các biện pháp bất đối xứng có lợi hơn. Kiểm soát xuất khẩu cũng trái ngược với các lệnh trừng phạt đối với các nhà thầu quốc phòng Mỹ, vốn có tác động hạn chế đến cả hai quốc gia.

496882253-23870858515878883-3639008986002877030-n-1747380151.jpg
 

𝗖𝗮́𝗰 𝗯𝗶𝗲̣̂𝗻 𝗽𝗵𝗮́𝗽 𝗸𝗶𝗲̂̉𝗺 𝘀𝗼𝗮́𝘁 𝘅𝘂𝗮̂́𝘁 𝗸𝗵𝗮̂̉𝘂 𝗸𝗵𝗼𝗮́𝗻𝗴 𝘀𝗮̉𝗻 𝗰𝗵𝗶𝗲̂́𝗻 𝗹𝘂̛𝗼̛̣𝗰 𝗹𝗮̀ đ𝗼̀𝗻 𝗯𝗮̂̉𝘆 𝗵𝗶𝗲̣̂𝘂 𝗾𝘂𝗮̉ 𝘃𝗶̀ (𝗶́𝘁 𝗻𝗵𝗮̂́𝘁) 𝗯𝗼̂́𝗻 𝗹𝘆́ 𝗱𝗼:

1. Về mặt địa chất, Trung Quốc có khối lượng lớn hơn các trữ lượng khoáng sản thương mại có thể khai thác được với nhiều loại khoáng sản khác nhau hơn Mỹ, nơi mà cả chính quyền trung ương và địa phương - và gần đây là các công ty hạ nguồn tư nhân - đã dành nhiều thập kỷ để phát triển.

2. Về mặt kỹ thuật, Trung Quốc có lợi thế đáng kể về cả phát triển nhân tài và kiến thức thể chế, đặc biệt quan trọng đối với chế biến khoáng sản - nút thắt chính đối với chuỗi cung ứng, quan trọng hơn cả khai thác quặng thô.

3. Về mặt công nghiệp, các công ty Trung Quốc tận hưởng nhiều sự hiệp lực trong chuỗi cung ứng trong nước, cả thượng nguồn và hạ nguồn, với nhiều công ty tận hưởng lợi ích về hiệu quả từ sự tích hợp theo chiều dọc, qua đó tăng thêm khả năng cạnh tranh.

4. Bắc Kinh có tốc độ phản ứng ngày càng nhanh với các lệnh cấm. Tốc độ Trung Quốc thực hiện các biện pháp kiểm soát xuất khẩu đã tăng lên, mặc dù chúng vẫn chủ yếu mang tính trả đũa các biện pháp của Mỹ. Trong khi chính phủ Trung Quốc thường mất vài tháng để phản ứng với các hạn chế của Mỹ, quyết định gần đây của Trung Quốc về việc cấm xuất khẩu gali, germani và antimon từ tháng 12/2024 được đưa ra một ngày sau thông báo về các biện pháp kiểm soát xuất khẩu chất bán dẫn mới của Mỹ. Đây là kết quả của việc xây dựng hệ thống cảnh báo sớm. Giữa đại dịch COVID-19, Chủ tịch Tập Cận Bình tuyên bố rằng “chuỗi cung ứng không được sụp đổ vào những thời điểm quan trọng”. Sau HNTW3 khoá 20 vào tháng 7/ 2024, các quan chức và doanh nghiệp đã chú ý nhiều hơn đến việc thiết lập hệ thống đánh giá rủi ro chuỗi cung ứng và cảnh báo sớm (链供应链风险评估和预警体系的长效机制). Điều này dường như có liên quan đến các sáng kiến khác nhằm tạo ra “một hệ thống quản lý thông tin toàn bộ quy trình từ cảnh báo sớm, ra quyết định, đến ứng phó và phục hồi” bằng cách thiết lập một “nền tảng ra quyết định và chỉ huy” chuỗi cung ứng tập trung cũng như một “trung tâm dữ liệu chuỗi cung ứng khẩn cấp thống nhất để tích hợp dữ liệu có liên quan từ nhiều phòng ban và khu vực khác nhau'” Để củng cố vị thế thống lĩnh thị trường đối với các khoáng sản quan trọng, kể từ tháng 10/2024, các nhà xuất khẩu Trung Quốc có nghĩa vụ cung cấp cho các cơ quan chức năng thông tin chi tiết về mục đích sử dụng cuối cùng của hàng xuất khẩu của họ trong chuỗi cung ứng phương Tây.

𝗕𝗼̂́𝗻 𝗿𝘂̉𝗶 𝗿𝗼 𝗿𝗶𝗲̂𝗻𝗴 𝗯𝗶𝗲̣̂𝘁 đ𝗮́𝗻𝗴 𝗸𝗲̂̉ đ𝗼̂́𝗶 𝘃𝗼̛́𝗶 𝗠𝘆̃:

1. Gián đoạn nguồn cung trực tiếp, trong đó Mỹ có thể không có khả năng có được các đầu vào không thể thay thế cho các sản phẩm mà mình sản xuất (như các nhà sản xuất ô tô của Mỹ).

2. Gián đoạn nguồn cung gián tiếp, trong đó các quốc gia khác sản xuất hàng hóa sau đó bán cho Mỹ có thể không có khả năng có được các đầu vào không thể thay thế cho các sản phẩm mà họ sản xuất (như nam châm đất hiếm vĩnh cửu của Nhật Bản).

3. Cú sốc giá toàn cầu, trong đó Mỹ có thể đảm bảo cả nguồn cung thượng nguồn và các sản phẩm chính của họ, nhưng các biện pháp kiểm soát của Trung Quốc làm tăng giá thị trường toàn cầu, cản trở các hoạt động công nghiệp và/hoặc thương mại (như đối với chất bán dẫn tiêu chuẩn và cũ)

4. Phát triển hệ thống sản xuất phi Trung Quốc đối diện với thách thức về thương mại hoá. Chẳng hạn, duy trì khả năng cạnh tranh với sản xuất của Trung Quốc là thách thức lớn nhất đối với các nhà sản xuất gali mới nổi. Chuỗi cung ứng tích hợp của Trung Quốc, từ khai thác bauxite đến sản xuất thuốc thử, tạo ra lợi thế về chi phí khó có thể vượt qua nếu không có quan hệ đối tác chiến lược hoặc đổi mới công nghệ. Các nhà sản xuất phương Tây phải đối mặt với nguy cơ giá cả sụt giảm nếu Trung Quốc "mở cửa" xuất khẩu. Kịch bản này, xảy ra gần đây nhất vào năm 2015-2017 khi giá giảm xuống dưới 200 USD/kg, khiến hầu hết hoạt động sản xuất không phải của Trung Quốc trở nên không kinh tế và trước đây đã ngăn cản đầu tư vào các chuỗi cung ứng thay thế. Chi phí vốn cao so với đóng góp doanh thu là một rào cản đáng kể khác. Một nhà máy gali thông thường công suất 50 tấn mỗi năm cần đầu tư khoảng 150 triệu USD nhưng thường chỉ đóng góp 1-2% doanh thu trong hoạt động sản xuất alumina tích hợp. Sự mất cân bằng này tạo ra động lực đầu tư đầy thách thức, đặc biệt là đối với các công ty đại chúng tập trung vào lợi nhuận ngắn hạn. Việc đảm bảo thuốc thử và công nghệ chế biến bên ngoài chuỗi cung ứng của Trung Quốc ngày càng trở nên khó khăn sau các hạn chế xuất khẩu. Các nhà sản xuất phương Tây phải phát triển thuốc thử thay thế hoặc tìm nguồn cung ứng không phải từ Trung Quốc với chi phí có thể cao hơn, qua đó tiếp tục thách thức khả năng cạnh tranh kinh tế của họ.

𝗩𝗲̂̀ đ𝗮̂́𝘁 𝗵𝗶𝗲̂́𝗺

Bức tranh chung để hình dung về “độ hiểm” của các lệnh cấm/hạn chế xuất khẩu liên quan đến đất hiếm đối với Mỹ như sau:

- Về khai thác: Sau khi Trung Quốc bắt đầu ngừng xuất khẩu đất hiếm sang Nhật sau các xung đột về biển đảo, Mỹ đã tìm cách khôi phục hoạt động khai thác quặng đất hiếm. Đến năm 2019, MP Materials đã khai thác mức lớn và Mỹ trở thành nước xuất khẩu quặng đất hiếm lớn nhất thế giới. Mỹ xuất khẩu quặng sang Trung Quốc để tinh chế bởi vì trong nước chưa có đủ công nghệ thực hiện điều này. Tại Nhật Bản, Tokyo đã trao quyền cho Tổ chức An ninh Năng lượng và Kim loại Nhật Bản hoạt động như một đại diện một cửa điều phối chiến lược khoáng sản của quốc gia. Tất cả hành động của các nước đã đóng vai trò quan trọng trong việc giảm tỷ lệ khai thác REE trên thế giới diễn ra tại Trung Quốc từ 95% xuống còn 60%.

- Về tinh chế: Nhưng Trung Quốc vẫn là nơi tinh chế hàng đầu với tỷ trọng 90% sản phẩm tinh chế toàn cầu. Đến năm 2025, Bộ Quốc phòng Mỹ đã tài trợ khoảng 439 triệu USD cho MP Materials và các tổ chức khác để R&D tinh chế đất hiếm với mục tiêu sản xuất vào năm 2027. Đồng thời Mỹ cũng hợp tác với các phòng thí nghiệm của Nhật, Australia, Khazakstan, Việt Nam để nghiên cứu, phát triển công nghệ liên quan. Hiện thời, với các nguyên tố đất hiếm thuộc nhóm “light” Mỹ đã có công nghệ tinh chế và đang triển khai nghiên cứu với các nhóm “heavy”. Tuy nhiên, hạn chế là các kết quả này vẫn đang ở trong phòng thí nghiệm và cần thời gian để sản xuất với quy mô lớn. Việc Trung Quốc kiểm soát gần như toàn bộ quá trình chế biến REE nặng - rất quan trọng đối với nam châm cường độ cao - đã khiến ngành công nghiệp quốc phòng Mỹ rơi vào thế khó. Tính đến đầu năm 2025, sản lượng oxit NdPr (neodymium-praseodymium) trong nước của Mỹ, một thành phần nam châm chính, chỉ đạt tổng cộng 1.300 tấn mỗi năm, so với sản lượng nam châm 300.000 tấn của Trung Quốc.

- Về tỷ lệ nhập khẩu. Trung Quốc hiện chiếm khoảng 90% lượng xuất khẩu sản phẩm tinh chế sang Mỹ/công ty Mỹ. Dự báo trong vài năm tới, tỷ lệ này sẽ giảm xuống 85 – 80% do có thể gia tăng nhập khẩu từ Nhật, Australia, Khazakstan và Việt Nam. Quá trình này sẽ chậm nhưng vẫn đang diễn ra.

- Điểm mạnh của Trung Quốc: có hệ thống chính sách hiệu quả hơn. Lỗ hổng chuỗi cung ứng xuất phát từ ba yếu tố, không yếu tố nào liên quan đến nguồn cung của các địa điểm khai thác: (i). Sẵn sàng chịu các tác động bên ngoài môi trường cao. (ii). Chuyên môn công nghệ trong việc phân tách và tinh chế. (iii). Rủi ro thị trường do thông tin không đầy đủ. Các chính sách của Trung Quốc đã cải thiện phần nào yếu tố đầu tiên, đã xuất sắc ở yếu tố thứ hai và thế giới đang phải vật lộn với yếu tố thứ ba. Chúng ta có thể đánh giá hiệu quả của chính sách của Trung Quốc đối với khả năng củng cố ngành công nghiệp trong nước, kiểm soát số lượng sản xuất và loại bỏ hoạt động khai thác bất hợp pháp, chuẩn hóa các quy trình sản xuất và thực thi các biện pháp bảo vệ môi trường cùng các quy định khác. Sự thống trị của Trung Quốc trong ngành công nghiệp đất hiếm là vấn đề chính sách, không phải địa lý. Mặc dù sự dịch chuyển từ Mỹ sang Trung Quốc ban đầu được thúc đẩy bởi các tiêu chuẩn về môi trường và quy định thấp hơn của Trung Quốc, nhưng không phải vì lý do này mà Trung Quốc vẫn duy trì được vị trí dẫn đầu hiện nay. Trong thập kỷ qua, Trung Quốc đã tăng cường đưa ra các quy định mới về môi trường, thực thi các quy định hiện hành và cải tiến một số quy trình khai thác và tinh chế sạch hơn. Quá trình tách và tinh chế là lĩnh vực mà Trung Quốc đã đầu tư rất nhiều vốn trí tuệ và nguồn lực nhà nước. Ngày nay, sự thống trị của Trung Quốc trong lĩnh vực đất hiếm chủ yếu là do đầu tư vào quá trình tách và tinh chế hơn là chính sách thương mại hoặc công nghiệp. Khi nói đến đất hiếm, giống như các công nghệ khác, đầu tư vào nghiên cứu cơ bản và đào tạo nhân tài của tương lai chính là nơi mà sự thống trị thực sự trong tương lai nằm ở đó.

𝗡𝗵𝘂̛̃𝗻𝗴 đ𝗶𝗲̂̉𝗺 𝘆𝗲̂́𝘂 𝗰𝘂̉𝗮 𝘃𝗶𝗲̣̂𝗰 𝗰𝗮̂́𝗺/𝗵𝗮̣𝗻 𝗰𝗵𝗲̂́ 𝘅𝘂𝗮̂́𝘁 𝗸𝗵𝗮̂̉𝘂 𝗸𝗵𝗼𝗮̉𝗻𝗴 𝘀𝗮̉𝗻 𝗰𝗵𝗶𝗲̂́𝗻 𝗹𝘂̛𝗼̛̣𝗰:

1. Chỉ có một số ít khoáng sản chiến lược mà Trung Quốc hạn chế/cấm xuất khẩu nằm trong nhóm 50 khoáng sản chiến lược đối với Mỹ. Antimon chủ yếu được sử dụng trong sản xuất chất chống cháy, kính năng lượng mặt trời, pin axit chì và đạn dược; gali và germani được sử dụng trong sản xuất chất bán dẫn; và than chì được sử dụng rộng rãi trong anot và vật liệu chịu lửa của pin lithium-ion.

2. Tầm quan trọng nhập khẩu đất hiếm tinh chế từ Trung Quốc: chỉ có 5% tổng số đất hiếm nhập khẩu từ Trung Quốc sử dụng cho mục đích quốc phòng. 95% còn lại sử dụng cho mục đích sản xuất công nghiệp.

3. Chưa có tác động rõ ràng của các lệnh cấm xuất khẩu đến giá cả của sản phẩm. Bất chấp lệnh kiểm soát xuất khẩu than chì của Trung Quốc — lần đầu tiên được ban hành vào tháng 12/2023 — giá vẫn ở mức thấp do tình trạng cung vượt cầu dai dẳng, đặc biệt là từ các vật liệu tổng hợp giá rẻ được sản xuất tại Trung Quốc, cùng với sự yếu kém gần đây trong doanh số bán xe điện tại Mỹ và châu Âu. Giá than chì vảy C 94%-95% là 410 USD/tấn vào ngày 12/ 12/2024, so với 430 USD/ tấn vào ngày 18/3/2024. Ngược lại, giá antimon tăng vọt từ mức khoảng 11.300 USD/tấn trong tuần đầu tiên của năm 2024 lên gần 40.000 USD/tấn vào tháng 12/2024.

4. Luôn có đòn bẩy để chống đòn bẩy, do đó việc leo thang của một bên có thể dẫn đến sự gia tăng phản công của bên còn lại. Trong khi Bắc Kinh cấm xuất khẩu khoáng sản chiến lược, Washington có thể ngừng cấp phép tiếp cận IP, software, các thiết bị chế tạo hiện đại trong các ngành công nghiệp chiến lược của đối thủ. Chẳng hạn, vào 2/12/2024, tổng thống Biden mở rộng kiểm soát đối với 24 thiết bị sản xuất bán dẫn (SME) thượng nguồn để ngăn chặn sự phát triển chip tiên tiến của Trung Quốc. Tính chất quan trọng trong đòn bẩy của Mỹ nằm ở chỗ nó có tác dụng ngay cả khi các công nghệ đó do Trung Quốc “sản xuất”. Vào tháng 5/2025, các hướng dẫn mới dưới thời Tổng thống Trump đã định nghĩa việc sử dụng chip Ascend của Huawei Technologies "ở bất kỳ đâu trên thế giới" là vi phạm Luật cải cách kiểm soát xuất khẩu (ECRA) của Mỹ.

5. Các công ty ngoài Trung Quốc gia nhập thị trường. Hoạt động cấm xuất khẩu của Trung Quốc không chỉ dẫn đến việc gia tăng buôn bán trên chợ đen, mà còn kích thích các công ty ngoài Trung Quốc tham gia vào chuỗi cung ứng. Một số sáng kiến sản xuất không phải của Trung Quốc đang được tiến hành. Chẳng hạn, đối với gali:

- Tại Đức, Vital Pure Metal Solutions hiện đang sản xuất một lượng nhỏ gali (khoảng 12 tấn mỗi năm), trong khi AOS Stade đang có kế hoạch tiếp tục sản xuất tại một cơ sở trước đây đã đóng cửa do sự cạnh tranh của Trung Quốc.

- Tại Hy Lạp, Metlen đã công bố kế hoạch sản xuất 50 tấn mỗi năm từ năm 2028, có khả năng trở thành nhà sản xuất gali lớn nhất châu Âu. Dự án được hỗ trợ một phần bởi nguồn tài trợ khoáng sản quan trọng của EU, phản ánh ưu tiên chiến lược mà các nhà hoạch định chính sách châu Âu hiện đặt ra là đảm bảo nguồn cung cấp gali.

- Canada đang nổi lên như một nhà cung cấp gali tiềm năng khác, với Rio Tinto đang xây dựng một nhà máy trình diễn tại Quebec có khả năng sản xuất 3,5 tấn mỗi năm. Cơ sở này có khả năng mở rộng thành nhà máy thương mại 40 tấn mỗi năm nếu điều kiện thị trường hỗ trợ khoản đầu tư.

- Tại Bắc Mỹ, Neo Performance Materials (được Wyloo Metals hỗ trợ) là đơn vị tái chế gali cấp bán dẫn duy nhất, thu hồi khoảng 8 tấn mỗi năm từ chất thải sản xuất. Công ty đã hợp tác với các nhà sản xuất chất bán dẫn lớn để mở rộng công suất tái chế lên 15 tấn mỗi năm vào năm 2026.

- MTM Critical Metals của Australia đang theo đuổi một phương pháp tiếp cận công nghệ khác, xây dựng một nhà máy trình diễn công suất 1 tấn mỗi năm tại Texas sử dụng công nghệ Flash Joule Heating tiên tiến. Phương pháp này cho phép chiết xuất gali từ chất thải của lò luyện nhôm và có khả năng bỏ qua một số phụ thuộc vào thuốc thử thách thức sản xuất thông thường.