fb-img-1645594884444-1645595214.jpg

Lợi suất trái phiếu chính phủ loại 10 năm của Nga tăng lên 11.03% sau khi Mỹ công bố lệnh trừng phạt mới cấm cửa Nga khỏi thị trường vốn của châu Âu và Mỹ. Trong năm đầu tiên, chính quyền Biden đã ban hành 765 chỉ định mới trong đó quốc gia chịu số lượng trừng phạt nhiều nhất gồm Belarus (100 chỉ định), Miến Điện (76), Trung Quốc (70) và Nga (54). Nhiều người cho rằng Trung Quốc sẽ tiếp tục đóng vai ngư ông đắc lợi. Nhưng với những lệnh trừng phạt mới và gắn kết kinh tế Trung – Nga, đó là ngư ông đắc lợi hay tái ông thất mã?

Quan hệ Nga – Trung đột nhiên được cải thiện từ năm 2014, năm mà Nga bắt đầu bị phương Tây trừng phạt bởi việc sáp nhậm Crimea. Tháng 5/2014, Putin đã có chuyến thăm Trung Quốc và ký một hợp đồng khí đốt được cho là béo bở với Nga trị giá 400 tỷ USD. Trong hợp đồng này Nga có nhiều lợi thế hơn bởi (i) giá bán khí đốt tương đối cao, và (ii) các công ty Trung Quốc không được nắm cổ phần của hệ thống đường ống dẫn khí cũng như các công nghệ mà công ty Nga nắm giữ trong lĩnh vực này. Từ đó, mối quan hệ Trung – Nga đã phát triển ngày càng mật thiết, ông Tập Cận Bình đã gọi ông Putin là “bạn thân” trước thềm chuyến thăm của Putin sang trong dịp Olimpic 2022 và quy mô thương mại hai chiều giữa hai nước cũng đạt mức 100 tỷ USD từ năm 2019. Các lệnh trừng phạt kinh tế mở rộng của phương Tây đối với Nga nếu chiến sự ở Ukraine leo thang có khiến Trung Quốc vô sự hay không? Nói cách khác, các tổn thất kinh tế mà Bắc Kinh phải đối diện khi quan hệ kinh tế ngày càng chặt chẽ với Nga là gì?

Năm 2014, sau một số bất đồng ban đầu trong liên minh xuyên Đại Tây Dương, Hoa Kỳ và Liên minh châu Âu đã áp đặt nhiều biện pháp trừng phạt đối với Nga: (1). Cấm các công ty kinh doanh ở Crimea; (2). Hạn chế khả năng tiếp cận thị trường vốn phương Tây của các công ty lớn của Nga như Rosneft và Sberbank; (3). Hạn chế việc chuyển giao một số loại công nghệ khoan dầu khí cho Nga; và (4). Thắt chặt kiểm soát xuất khẩu đối với các công ty liên kết với quân đội, gây ra sự chậm trễ nghiêm trọng cho một số chương trình hàng không và vũ trụ. Vào năm 2014, Trung Quốc không đóng vai trò quan trọng nào trong các lệnh trừng phạt này, cả về việc định hình quá trình ra quyết định của phương Tây hay phản ứng của Nga. Điều này phần lớn là do Trung Quốc không có vị trí chính trong các lĩnh vực kinh tế được nhắm tới để trừng phạt Nga. Không có khoản đầu tư đáng kể nào của Trung Quốc vào Crimea cũng như thị trường vốn của Trung Quốc không có khả năng thay thế New York hoặc London. Trung Quốc không có thiết bị khoan dầu tiên tiến nào bị trừng phạt và không có hàng hóa đáng kể nào do Trung Quốc sản xuất bị ảnh hưởng bởi các biện pháp kiểm soát xuất khẩu mới. Vì lý do này, Mỹ và EU đã áp đặt các biện pháp trừng phạt mà không cần phải xem xét nghiêm túc xem liệu Trung Quốc có thể phản ứng như thế nào. Nga đã phải đáp trả các lệnh trừng phạt khi biết rằng có rất ít cơ hội có thể trông cậy vào sự giúp đỡ đáng kể của Trung Quốc. 

Nhưng nếu lần này phương Tây gia tăng các loại hình và mức độ trừng phạt, nó sẽ khó khăn hơn và tốn kém hơn đối với Trung Quốc. Trong trường hợp bị trừng phạt cứng rắn, Trung Quốc sẽ buộc phải lựa chọn. Các quyết định mà Bắc Kinh đưa ra sẽ làm suy yếu các lệnh trừng phạt hoặc tăng cường tác động của chúng, từ đó hình thành nhận thức của Điện Kremlin về việc liệu Nga có thể vượt qua chi phí kinh tế hay không.

Ba bộ trừng phạt như vậy đáng được xem xét đặc biệt bao gồm: (1) Các biện pháp trừng phạt cứng rắn đối với lĩnh vực tài chính Nga; (2) Các biện pháp trừng phạt khiến các công ty quốc doanh lớn của Nga ngừng kinh doanh; (3) Kiểm soát xuất khẩu bằng cách cấm chuyển các sản phẩm dân sự sang Nga. Mỗi điều này sẽ yêu cầu sự tuân thủ của Trung Quốc để có tác động tối đa đến Nga.

Các biện pháp trừng phạt tài chính và ngân hàng

Có thông tin công khai rằng trong trường hợp Nga leo thang quân sự, Mỹ có thể áp đặt các biện pháp trừng phạt cứng rắn đối với lĩnh vực tài chính bằng cách cắt đứt khả năng chuyển đổi đồng rúp Nga sang USD của các ngân hàng quốc tế; bằng cách cắt đứt quyền truy cập của Nga vào mạng liên lạc liên ngân hàng SWIFT, mạng này xử lý hầu hết các khoản thanh toán quốc tế; hoặc bằng cách khác cố gắng cắt đứt quyền tiếp cận của các công ty Nga với thị trường tài chính quốc tế.

Vào năm 2014, Mỹ và EU đã áp đặt một số hạn chế hạn chế đối với khả năng huy động vốn của các công ty lớn của Nga, mặc dù những hạn chế này có thể được thắt chặt và mở rộng để bao gồm nhiều công ty hơn. Các loại trừng phạt tài chính khác được liệt kê ở trên đã được áp dụng đối với các nền kinh tế nhỏ, như Iran và Triều Tiên, nhưng không bao giờ chống lại một quốc gia như Nga, có nền kinh tế lớn đang hội nhập sâu rộng vào thị trường tài chính quốc tế. Lần cuối cùng một nền kinh tế lớn bị cắt đứt thanh toán quốc tế trong thời bình là khi Mỹ áp đặt các lệnh trừng phạt đối với Nhật Bản trước Thế chiến thứ hai.

Khi phương Tây áp đặt các biện pháp trừng phạt đối với việc tiếp cận thị trường vốn của một số công ty Nga - mặc dù không thực hiện bất kỳ bước nào hạn chế khả năng thanh toán quốc tế của chúng - thì Trung Quốc có rất ít khả năng thay thế các thị trường vốn của phương Tây, vì thị trường vốn của chính Trung Quốc hầu như đóng cửa với người nước ngoài do tài khoản vốn vẫn bị kiểm soát rất chặt. Các công ty Nga không thể chỉ chuyển tiền gây quỹ của họ từ London đến Thượng Hải. Các biện pháp mà Trung Quốc thực hiện để giúp các công ty Nga huy động vốn sau năm 2014 phần lớn chỉ mang tính biểu tượng. Vào tháng 10 năm 2014, ngay sau khi các biện pháp trừng phạt cứng rắn được áp đặt, Thủ tướng Trung Quốc Lý Khắc Cường đã đến thăm Tổng thống Putin ở Moscow và đưa ra những lời hứa mơ hồ về đầu tư, làm dấy lên các tiêu đề truyền thông như “Nga ký thỏa thuận với Trung Quốc để giúp (Nga) vượt qua sóng gió của các biện pháp trừng phạt”, mặc dù quy mô đầu tư thực tế vẫn còn giới hạn. Đồng thời, các ngân hàng trung ương Trung Quốc và Nga đã mở một đường dây hoán đổi tiền tệ, cho phép Bắc Kinh cho Nga vay đồng Nhân dân tệ, mặc dù nó dường như không được sử dụng một cách có ý nghĩa. Các bước đi có ý nghĩa duy nhất mà Trung Quốc thực hiện trong những năm sau 2014 là cho phép các công ty nhà nước và được nhà nước hậu thuẫn đầu tư nhiều hơn vào các tài sản năng lượng của Nga, mặc dù điều này xảy ra sau đỉnh điểm của căng thẳng chính trị vào năm 2014-2015. Đến nay, Bắc Kinh và Moscow phần lớn đã thành công trong nỗ lực “phi đô la hóa” thương mại song phương, nhưng điều này đã không đạt được thông qua quốc tế hóa đồng Nhân dân tệ, mà bằng cách chuyển sang sử dụng đồng euro như một phương tiện trao đổi. Khoảng 80% các giao dịch giữa Trung Quốc và Nga hiện được thực hiện bằng đồng euro, mà theo một số chuyên gia Nga lưu ý, hầu như không loại trừ nguy cơ bị trừng phạt.

Nếu phương Tây áp đặt các biện pháp trừng phạt nghiêm ngặt đối với khả năng thanh toán quốc tế của Nga hiện nay, đồng rúp sẽ sụp đổ và Nga sẽ phải sử dụng một phần đáng kể trong số khoảng 500 tỷ USD dự trữ ngoại hối của mình để cố gắng ổn định tiền tệ và tài trợ cho nhập khẩu. Do Nga nhập khẩu và xuất khẩu nhiều hàng hóa từ Trung Quốc hơn bất kỳ quốc gia nào khác, nên Trung Quốc sẽ bị ảnh hưởng nhiều nhất bởi bất kỳ nỗ lực nào nhằm ngăn chặn thanh toán quốc tế mà phương Tây áp đặt lên Nga. Do đó, Trung Quốc sẽ phải lập trường về việc liệu họ có tuân thủ các lệnh trừng phạt như vậy hay không.

Cả Trung Quốc và Nga đều đầu tư vào hệ thống thanh toán của riêng họ có thể giúp họ thực hiện thanh toán mà không cần hệ thống SWIFT, mặc dù các hệ thống này chưa được thử nghiệm trong điều kiện khủng hoảng thế giới thực. Trung Quốc có thể giúp Nga bằng cách nhanh chóng chuyển đổi thương mại song phương sang các hệ thống thanh toán khác, chuyển thương mại hiện được tính bằng USD hoặc euro sang rúp hoặc đồng Nhân dân tệ và bằng cách cung cấp các khoản vay hào phóng bằng đồng Nhân dân tệ cho chính phủ Nga, ngân hàng trung ương và các tổ chức tài chính lớn của Nga, có thể sau đó được sử dụng để mua hàng hóa từ Trung Quốc. Một động thái như vậy sẽ gây tốn kém cho Trung Quốc, vì một số khoản vay này có thể không được hoàn trả. Những nỗ lực này cũng sẽ làm gia tăng đáng kể căng thẳng Mỹ-Trung. Tuy nhiên, nếu một động thái như vậy có tác dụng ổn định thương mại Nga-Trung Quốc, thì các cơ chế tài chính này cũng có thể được các nước thứ ba sử dụng để giao dịch với Nga trong khi tránh các lệnh trừng phạt tài chính của Mỹ. Nếu đúng như vậy, điều này sẽ chứng tỏ sức mạnh tài chính của Trung Quốc và hiệu quả của các lệnh trừng phạt của Mỹ đang giảm sút.

Các biện pháp trừng phạt đối với các công ty lớn của Nga

Ngoài các biện pháp trừng phạt rộng rãi, nghiêm ngặt đối với hệ thống tài chính của Nga và khả năng giao dịch quốc tế của quốc gia này, Mỹ và châu Âu có thể áp đặt các biện pháp trừng phạt cứng rắn đối với các công ty cụ thể của Nga. Để tác động đến việc ra quyết định của Điện Kremlin, các lệnh trừng phạt sẽ phải nhắm vào một số công ty lớn nhất của Nga, nhiều công ty trong số đó có quan hệ kinh doanh đáng kể với Trung Quốc. Cho đến nay, các công ty lớn của Nga hầu như chỉ bị giới hạn trong việc tiếp cận thị trường vốn, nhưng họ có thể bị nhắm đến với các biện pháp trừng phạt cứng rắn hơn dẫn đến việc bị tách khỏi hệ thống tài chính quốc tế. Nếu vậy, bất kỳ hoạt động quốc tế nào của các công ty Nga niêm yết sẽ bị gián đoạn nghiêm trọng, tạo ra rủi ro cho Trung Quốc nhưng cũng mở ra cơ hội cho Trung Quốc giúp các công ty này hiệu chuẩn lại và do đó làm suy yếu hiệu quả của các lệnh trừng phạt của Mỹ.

Nếu Mỹ tái lập các lệnh trừng phạt năm 2018 đối với Rusal – công ty khai thác alumina lớn nhất của Nga - và mở rộng chúng sang các công ty khác thì sẽ khiến Trung Quốc phải gánh chịu hai chi phí nghiêm trọng. Thứ nhất, Trung Quốc sẽ phải gánh chịu sự gián đoạn thị trường hàng hóa mà điều này sẽ gây ra. Tùy thuộc vào việc các công ty Nga bị trừng phạt, thị trường quốc tế đối với nhôm, niken, đồng, palađi và các sản phẩm khác có thể bị gián đoạn, gây tăng giá đáng kể. Thứ hai, các biện pháp cũng có thể được sử dụng để chống lại một số công ty Trung Quốc trong tương lai.

Dù thế nào đi nữa, Trung Quốc sẽ không có cơ hội để đứng bên lề. Trung Quốc có thể đáp trả các biện pháp trừng phạt như vậy bằng cách giúp các công ty Nga tránh bị ảnh hưởng. Ví dụ, các ngân hàng quốc doanh của Trung Quốc hoặc chính phủ Trung Quốc có thể cung cấp các khoản vay cho các công ty Nga bị ảnh hưởng. Các ngân hàng Trung Quốc cũng có thể tình nguyện xử lý các khoản thanh toán quốc tế cho công ty của Nga. Nếu Trung Quốc có thể giúp các công ty lớn của Nga kinh doanh bất chấp các lệnh trừng phạt tài chính nghiêm ngặt của Mỹ, thì điều này sẽ làm suy yếu hiệu quả của bất kỳ chương trình trừng phạt nào của Mỹ trong tương lai. Trung Quốc sẽ chứng tỏ sức mạnh tài chính của mình và sẽ có các công cụ tài chính có thể được triển khai lại trong các cuộc khủng hoảng trong tương lai.

Kiểm soát xuất khẩu

Ngoài các biện pháp trừng phạt đối với hệ thống tài chính Nga hoặc đối với từng công ty Nga, các báo cáo truyền thông cho thấy Mỹ cũng đang xem xét áp đặt các biện pháp kiểm soát xuất khẩu nghiêm ngặt đối với Nga, bao gồm cả điện thoại thông minh và các bộ phận máy bay. Trong nhiều năm qua, Mỹ đã áp đặt các biện pháp kiểm soát xuất khẩu nghiêm ngặt, đặc biệt là đối với công nghệ bán dẫn, nhằm vào các công ty Trung Quốc như Huawei, SMIC và Hikvision. Phạm vi của các biện pháp kiểm soát xuất khẩu này và khả năng đóng băng hoạt động của các công ty toàn cầu lớn như Huawei đã khiến nhiều nhà quan sát ngạc nhiên, bao gồm cả ở Trung Quốc. Trước một dấu hiệu cho thấy sức mạnh của các lệnh trừng phạt này, Bắc Kinh đã không trả đũa bất chấp việc Mỹ đã nhắm vào một số công ty lớn nhất của họ.

Mỹ từ lâu đã áp đặt các biện pháp kiểm soát xuất khẩu nhất định đối với Nga, mặc dù trước đây họ chủ yếu nhắm vào hàng hóa quân sự hoặc lưỡng dụng. Giờ đây, Mỹ đang xem xét việc tăng đáng kể quy mô kiểm soát xuất khẩu để bao gồm các sản phẩm dân dụng quan trọng. Những hạn chế như vậy, nếu được áp đặt, sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến Trung Quốc, đặc biệt là vì hầu hết điện thoại thông minh được lắp ráp tại Trung Quốc và nhiều điện thoại thông minh mà người Nga mua lại được sản xuất bởi các công ty Trung Quốc như Xiaomi.

Tuy nhiên, hầu hết tất cả các điện thoại đều bao gồm các linh kiện của Mỹ, đặc biệt là chất bán dẫn tiên tiến của chúng, và do đó bị ảnh hưởng bởi các biện pháp kiểm soát xuất khẩu của Hoa Kỳ. Nếu Mỹ áp đặt các biện pháp kiểm soát xuất khẩu đối với điện thoại thông minh hoặc các sản phẩm khác, các công ty Trung Quốc sẽ phải quyết định xem có tuân theo các biện pháp kiểm soát xuất khẩu này hay vi phạm chúng hay không. Chính phủ Trung Quốc có thể từ chối các biện pháp kiểm soát xuất khẩu. Nếu vậy, Mỹ sẽ phải lựa chọn giữa việc để các công ty Trung Quốc phớt lờ họ - theo đó mở ra nhiều kẽ hở - hoặc bắt đầu một cuộc leo thang lớn của chiến dịch kiểm soát xuất khẩu bằng cách cố gắng trừng phạt các công ty Trung Quốc vi phạm. Ngoài ra, chính phủ Trung Quốc có thể tạo điều kiện cho việc chuẩn bị các công ty vỏ bọc có thể quản lý thương mại điện thoại thông minh với Nga. Điều này có khả năng khiến các nhà sản xuất và lắp ráp điện thoại thông minh không phải chịu trách nhiệm về các biện pháp kiểm soát xuất khẩu, mặc dù Mỹ vẫn có thể cố gắng thực thi các biện pháp kiểm soát chống lại các bên trung gian này.

Nếu Trung Quốc thực thi các biện pháp kiểm soát xuất khẩu của Mỹ đối với Nga, đây sẽ là một dấu hiệu suy yếu sâu sắc, ngụ ý rằng các công ty Trung Quốc sản xuất hàng hóa tại Trung Quốc chỉ có thể bán cho các nước thứ ba với sự cho phép của Mỹ. Tuy nhiên, nếu Trung Quốc từ chối các biện pháp kiểm soát xuất khẩu của Mỹ, Mỹ sẽ phải đối mặt với lựa chọn không mấy khả quan là tung ra một chiến dịch gây áp lực lớn mới nhằm vào Trung Quốc ngay cả khi đang đối phó với hậu quả từ cuộc chiến Nga-Ukraine có khả năng leo thang.