Nếu như nền kinh tế Hàn Quốc bị tác động bởi các Chaebol, thì nền kinh tế Nhật Bản sau thế chiến thứ hai được vực dậy và làm cho phát triển mạnh mẽ nhờ các tập đoàn lớn có liên kết với nhau gọi là các Keiretsu. Cũng như các Chaebol Hàn Quốc, Keiretsu ở Nhật Bản cũng được chính phủ trọng đãi.
Tính theo GDP danh nghĩa (Nominal GDP: tổng sản phẩm quốc nội), quốc gia này có nền kinh tế lớn thứ 2 ở châu Á và lớn thứ 3 trên thế giới, năm 2022 nominal GDP Nhật Bản đạt 5.04 nghìn tỷ USD.
Hiện tại Nhật Bản có 6 tập đoàn keiretsu công nghiệp lớn và 11 tập đoàn quy mô nhỏ hơn. Doanh số của các keiretsu này chiếm khoảng 25% doanh số của tất cả các công ty Nhật Bản nhưng chiếm khoảng 78% tổng giá trị vốn hóa của Thị trường chứng khoán Tokyo.
Zaibatsu - tiền thân của Keiretsu
Các Keiretsu có tiền thân là các Zaibatsu. Sau khi bại trận trong Thế chiến thứ hai, nền kinh tế Nhật Bản sụp đổ toàn phần. Lực lượng Đồng Minh chủ tâm triệt hạ nền tảng phát xít ở Nhật Bản bằng cách phá vỡ các zaibatsu - các tập đoàn công nghiệp khổng lồ vốn kiểm soát nền kinh tế nước Nhật trước Thế chiến thứ hai. Trước kia bốn zaibatsu lớn nhất (Mitsibishi, Mitsui, Sumotomo, Yasuda) chiếm khoảng ¼ tổng tài sản công nghiệp Nhật Bản.
Sau chiến tranh thế giới thứ II, trình độ tập trung tư bản của các Zaibatsu đã đạt mức rất cao: 10 Zaibatsu lớn nhất lên đến 53% trong ngành tài chính, 49% trong công nghiệp nặng và 17% trong công nghiệp nhẹ.
Điểm khác nhau lớn nhất giữa zaibatsu và keiretsu là mối quan hệ sở hữu và sự chi phối kiểm soát giữa các bên. Nếu như phía zaibatsu là quan hệ sở hữu và quyền kiểm soát thuộc về một gia đình tài phiệt nào đó, thì trong keiretsu, quan hệ sở hữu chính là tỷ lệ nắm cổ phần chéo giữa các công ty trong nhóm. Do vậy, các công ty luôn chịu sự chi phối và kiểm soát lẫn nhau.
Các Zaibatsu thực chất là mô hình công ty gia đình, chỉ được thừa kế bởi những người chung huyết thống, là công ty theo kiểu nửa phong kiến, được chính phủ hậu thuẫn và là công cụ của Chính phủ khi có chiến tranh xảy ra. Khi Keiretsu xuất hiện, nền kinh tế Nhật Bản trở nên dân chủ hơn.
Nguồn gốc của Keiretsu
Ngày 9/8/1945, một quả bom plutonium tàn phá thành phố Nagasaki chỉ 3 ngày sau khi thành phố Hiroshima hứng chịu quả bom Urani của Mỹ. Phát xít Nhật đầu hàng, Thế chiến II chấm dứt, và những gì còn lại ở Nhật là đống đổ nát sau chiến tranh.
Các vụ đánh bom khiến sản xuất lương thực bị gián đoạn và người dân phải sống trong cảnh đói kém. Nền kinh tế Nhật vốn có động lực là sản xuất vật tư phục vụ chiến tranh đã bị đình trệ đáng kể khi sản xuất công nghiệp giảm 90%. Thu nhập bình quân đầu người giảm mạnh 47%.
Việc tái thiết nền kinh tế là một thách thức khi Nhật Bản có ít dân số và khi nền kinh tế bị ảnh hưởng nặng nề. Nhật Bản không còn lựa chọn nào khác ngoài việc đồng ý với các điều khoản cứng rắn để đổi lấy viện trợ tái thiết của Mỹ. Từ năm 1946 đến năm 1952, Nhật Bản đã nhận được khoảng 2,2 tỷ USD, trong đó bao gồm gần 1,7 tỷ USD là viện trợ không hoàn lại và 504 triệu USD Mỹ cho vay.
Bên cạnh các chính sách, các Keiretsu đã hình thành dưạ trên nền tảng các Zaibatsu – Tập đoàn công nghiệp khổng lồ kiểm soát nền kinh tế nước Nhật trước thế chiến thứ hai, và từng bước khẳng định đưa Nhật Bản trở thành một cường quốc hùng mạnh đứng thứ 2 trên thế giới.
Để làm được điều đó, chính phủ đã sử dụng nguồn viện trợ tái thiết một cách khôn ngoan. Chính phủ Nhật Bản đã chủ động cắt giảm 90% chi tiêu quân sự và dành khoản tiền này cho giáo dục, mà cụ thể là tập trung vào các ngành STEM (Khoa học, Công nghệ, Kỹ thuật và Toán học), những lĩnh vực sẽ phục vụ cho ngành công nghiệp của nước nhà trong tương lai.
Nhưng yếu tố chính yếu là công dân cần có một mức độ kỷ luật xã hội cao hơn. Các nhà lãnh đạo, cả trong chính phủ và thành phần tư nhân đều phải có tinh thần đạo đức cao. Vì vậy, các công ty được khuyến khích hợp tác hơn là cạnh tranh. Các ngân hàng được giao nhiệm vụ hỗ trợ thay vì chiếm đoạt. Lực lượng lao động được kỳ vọng không chỉ hoàn thành, mà còn vượt qua cả nhiệm vụ được giao. Chính những điều này đã tạo nên văn hóa "lợi ích tập thể" của Nhật Bản.
Bản chất của Keiretsu:
Bản chất của các tập đoàn Keiretsu là mối quan hệ qua lại giữa các công ty thành viên theo hai chiều chính: dọc và ngang. Kiểu liên kết dọc hay ngang quyết định đến bộ phận đứng đầu của một Keiretsu.
Keiretsus ngang xuất hiện trước, cũng là mô hình đặc trưng của Keiretsu, đặc biệt là đối với ngành ngân hàng Nhật Bản. Đây là những nhóm gồm nhiều công ty sở hữu cổ phần của nhau, đứng đầu là một ngân hàng Nhật Bản, còn được gọi là sở hữu chéo. Một trong những tác động của cơ cấu này là giảm thiểu sự hiện diện của những người tiếp quản đối lập ở Nhật Bản, bởi vì không một thực thể kinh doanh nào muốn đối đầu với sức mạnh kinh tế của các ngân hàng.
Rất nhiều công ty Nhật đều có liên hệ ít nhiều đến Keiretsu. Thông thường một nhà sản xuất lớn sẽ mua cổ phần trong ít nhất vài trăm công ty khác liên quan.
Các Keiretsu liên kết ngang hoạt động trong nhiều ngành công nghiệp khác nhau, từ công nghiệp đóng tàu, luyện kim, xây dựng, hoá chất cho đến thương mại. Do sở hữu cổ phần lẫn nhau và chịu ảnh hưởng của một ngân hàng và công ty thương mại chung nên các doanh nghiệp trong Keiretsu thường có chiến lược kinh doanh giống nhau, phát huy khả năng hợp tác, tương trợ, đặc biệt là khi gặp khó khăn về tài chính, chia sẻ kinh nghiệm quản lý và các cách thức tiếp thị, thâm nhập thị trường.
Trong khi đó, Keiretsu liên kết dọc là là các nhánh bên trong Keiretsu ngang, là các nhánh của tổ chức, và có mối quan hệ như trong một công ty (từ khâu sản xuất, cung ứng nguyên vật liệu đến tiêu thụ sản phẩm trong một ngành nghề nhất định). Toyota, Toshiba và Nissan là những ví dụ về Keiretsu dọc. Không giống như Keiretsu nằm ngang, các ngân hàng không đóng một vai trò quan trọng nào trong việc hình thành này. Các nhóm này được chia thành các phân cấp hoặc tầng đa cấp.
Ưu và nhược điểm của các Keiretsu
Từ sau Thế chiến Thứ 2, Keiretsu không những giúp nền kinh tế Nhật Bản vực dậy mà còn cải thiện đáng kể vị trí của nền kinh tế Nhật Bản trên trường thế giới: Năm 1960, ngành công nghiệp Nhật Bản đã đạt 350% sản lượng mà đất nước này sản xuất trước Thế Chiến thứ 2. Vào năm 2020, Tokyo (Nhật Bản) là thành phố giàu nhất thế giới, tính theo GDP. Và Nhật Bản cũng là chủ nợ lớn nhất thế giới vào cuối năm 2019.
Keiretsu giúp cho các công ty thành viên tránh được nguy cơ bị thôn tính bởi các công ty nước ngoài nhờ việc tập hợp thành một khối thống nhất. Keiretsu đảm bảo rằng các thành viên của nó không bị cuốn vào cuộc cạnh tranh lẫn nhau. Đây được gọi là "One Set rule - Quy tắc một tập hợp". Và nguồn vốn cũng dễ dàng được hỡ trợ bởi các ngân hàng.
Tuy nhiên, keiretsu cũng có một số nhược điểm: Các nhà phê bình chỉ ra rằng kích thước lớn khiến các keiretsu khó đáp ứng nhanh với nhu cầu thị trường và sự hạn chế cạnh tranh sẽ dẫn đến hoạt động không hiệu quả cũng như khả năng tiếp cận vốn dễ dàng sẽ khuyến khích các công ty thực hiện các chiến lược "được ăn cả, ngã về không" và các tổ chức bên ngoài ngân hàng sẽ khó mà đồng ý tài trợ vốn cho họ.
Vì vậy, các công ty Nhật Bản có khoảng thời gian rơi vào lao đao trong khoảng thế kỷ thứ XX, và một số công ty đã xem lại, suy ngẫm và tiến hành cải cách mô hình keiretsu nguyên mẫu.
Nhật Bản đã có tới 6 tập đoàn Keiretsu công nghiệp lớn và 11 tập đoàn quy mô nhỏ hơn. Doanh số các Keiretsu này chiếm khoảng 25% doanh số của tất cả các công ty Nhật Bản và giá trị vốn hóa thị trường của chúng chiếm khoảng 78% tổng giá trị vốn hóa của thị trường Tokyo.
Keiretsu tác động lên nền kinh tế như thế nào?
Cũng như các Zaibatsu đã từng, thì sau thế chiến thứ hai, các tập đoàn Keiretsu cũng “nối nghiệp” tiền thân của mình, trở thành các tập đoàn công nghiệp khổng lồ kiểm soát nền kinh tế nước Nhật. Các Keiretsu chiếm phần lớn tổng giá trị vốn hóa của Thị trường chứng khoán Tokyo.
Các Keiretsu cũng có tác động mạnh mẽ đến nền kinh tế Nhật Bản, đưa Nhật Bản trở thành quốc gia có nền kinh tế lớn thứ 2 ở châu Á và lớn thứ 3 trên thế giới, năm 2022 nominal GDP Nhật Bản đạt khoảng 5.04 nghìn tỷ USD, vượt qua những người khổng lồ như Pháp, Đức và Vương quốc Anh. Và đặc biệt là giúp cho các công ty Nhật Bản không bị thôn tính bởi các công ty nước ngoài.
Keiretsu là nguồn gốc, nền tảng của những Tập đoàn lớn, hàng loạt siêu thương hiệu đa dạng hóa, đầy quyền lực hiện nay như Honda, Toyota, Mitsubishi, Nissan,...
Nhật Bản sau Chiến tranh thế giới thứ 2
Sau khi Nhật Hoàng Hirohito chính thức tuyên bố đầu hàng quân Mỹ vào tháng 8-1945, chiến tranh thế giới thứ 2 kết thúc. Nhật Bản là nước bại trận bị quân đội nước ngoài chiếm đóng, mất hết thuộc địa, và nền kinh tế bị tàn phá nặng nề. Nhiều khó khăn bao trùm quốc gia này như thất nghiệp, thiếu thốn lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng, lạm phát nặng nề.
Về lương thực: Các vụ đánh bom khiến sản xuất lương thực bị gián đoạn và người dân phải sống trong cảnh đói kém. Nền kinh tế Nhật vốn có động lực là sản xuất vật tư phục vụ chiến tranh đã bị đình trệ đáng kể khi sản xuất công nghiệp giảm 90%. Thu nhập bình quân đầu người giảm mạnh 47%. Ngay cả lương thực dự trữ của chính phủ cũng chỉ ở mức tạm bợ, để nhân dân gắng gượng trong nạn thiếu lương thực.
Về công nghiệp: Sản lượng sản xuất công nghiệp giảm 32%, năm 1946 chỉ bằng ¼ so với trước chiến tranh, ngoại thương giảm 80%, 3 triệu lao động thất nghiệp, những cuộc đấu tranh của nông dân diễn ra quyết liệt. Số người thất nghiệp lên tới 3 triệu người.
Cơ sở vật chất: chỉ còn lại gần như là "một đống đổ nát", 30% dân số không có nhà ở, 66 thành phố chính bị tàn phá nặng nề, cuộc sống ở khu vực nông thôn chỉ còn tương đương 65% so với trước chiến tranh.
Dưới chế độ quân quản của Mỹ, một loạt các chính sách dân chủ được tiến hành như ban hành hiến pháp mới, thực hiện cải cách ruộng đất, xóa bỏ chủ nghĩa quân phiệt và trừng phạt tội phạm chiến tranh, giải giáp các lực lượng vũ trang, ban hành các quyền tự do dân chủ. Những chính sách này đã đem đến không khí mới với các tầng lớp nhân dân, thúc đẩy sự phát triển đất nước.
Từ năm 1945-1950, nước Nhật bước vào thời kỳ phục hồi kinh tế, nền kinh tế phát triển chậm chạp và phụ thuộc vào kinh tế Mỹ. Tuy nhiên, chỉ từ những năm 70 trở đi, kinh tế nước này phát triển mạnh mẽ.
Đi lên từ đống đổ nát
Nhận ra tầm quan trọng của việc tái thiết kinh tế, Nhật Bản muốn khẳng định lại vị trí của đất nước, muốn trở thành một siêu cường công nghiệp. Nhật Bản sẽ khôi phục danh dự của mình, không phải bằng sức mạnh quân sự, mà là bằng uy thế trong lĩnh vực kinh tế.
Các công ty được khuyến khích hợp tác hơn là cạnh tranh. Các ngân hàng được giao nhiệm vụ hỗ trợ thay vì chiếm đoạt. Lực lượng lao động được kỳ vọng không chỉ hoàn thành, mà còn vượt qua cả nhiệm vụ được giao. Các nhà điều hành khôn khéo, tài giỏi, bảo vệ các công ty thành viên,... Chính những điều này đã tạo nên văn hóa "lợi ích tập thể" của Nhật Bản. Và cũng là những yếu tố tạo nên cái tên Keiretsu hiện tại.
Trước hết, với sự tạo điều kiện của Bộ Tư lệnh tối cao cùng với nguồn hỗ trợ tài chính đặc biệt từ Hoa Kỳ, Bộ Công nghiệp và Thương mại Nhật Bản (MITI) đã được thành lập với sứ mệnh chấn hưng nền kinh tế Nhật Bản. Thông qua hàng loạt các chính sách của MITI như tài trợ vốn, mua công nghệ phương Tây, bảo hộ thị trường nội địa và hỗ trợ xuất khẩu đã tác động một cách có "hiệu quả" đến nền kinh tế Nhật Bản:
- Từ 1952- 1973, tốc độ tăng tổng sản phẩm quốc dân thực tế của Nhật Bản ở mức cao nhất trong các nước tư bản. So với thời điểm năm 1950, năm 1973 giá trị tổng sản phẩm trong nước tăng hơn 20 lần, từ 20 tỷ USD lên 402 tỷ USD, vượt Anh, Pháp và CHLB Đức.
- Từ 1951- 1973, kinh tế Nhật Bản bước vào sự phát triển thần kỳ: Tốc độ phát triển công nghiệp thời kỳ 1950-1960 là 15,9%; từ 1960-1969 là 13,5%. Giá trị tổng sản lượng công nghiệp tăng từ 4,1 tỷ USD năm 1950 lên 56,4 tỷ USD năm 1969.
- Công nghiệp đóng tàu đến những năm 1970 chiếm đến 50% tổng số tàu biển và Nhật có tới sáu trong mười nhà máy đóng tàu lớn nhất thế giới tư bản.
- Năm 1960, ngành công nghiệp ô tô của Nhật ghi nhận mức tăng mạnh, vươn lên đứng thứ 6 trong thế giới tư bản. Đến năm 1967, công nghiệp ô tô Nhật Bản vươn lên hàng thứ 2 thế giới, chỉ sau Mỹ.
Tác động của các Keiretsu - Mô hình phát triển lý tưởng
Các Keiretsu là mô hình liên kết giữa các công ty thành viên, giảm thiểu đáng kể số lượng người thất nghiệp. Bên cạnh đó, Keiretsu cũng chính là những tập đoàn đi đầu về khoa học, công nghệ hiện đại. Điển hình là Mitsubishi, Nissan,... vừa có tiền thân là các Zaibatsu, vừa có hỗ trợ đặc biệt từ chính phủ, chỉ một vài năm sau đó, các Keiretsu đã giúp cho nền kinh tế Nhật Bản chuyển hướng từ nền nông nghiệp thành nền công nghiệp hiện đại và dịch vụ (Sản xuất đóng tàu, công nghiệp chất bán dẫn, ô tô, bất động sản,...). Qua đó, Keiretsu đã góp phần lớn vào việc tạo dựng lại uy thế kinh tế nước nhà mà còn cho Nhật Bản một vị thế vững chắc trong ngành khai thác khoáng sản và đóng tàu, đồng thời cũng vươn ra các ngành công nghiệp khác trên nhiều nước trên thế giới.
- Giải quyết nạn thất nghiệp: họ đã ký hợp đồng với công nhân, cho công nhân bảo hiểm và mức lương xứng đáng, họ duy trì việc thuê mướn lâu dài, đòi hỏi ở người công nhân lòng trung thành đối với công ty, đồng thời lương bổng cũng sẽ tăng theo với thâm niên làm việc. Ccáh mà các tập đoàn Keiretsu quản trị nhân sự một khéo léo như thế đã khiến cho giới công nhân trở nên một lực lượng lao động vừa hữu hiệu, vừa trung thành và tận tụy. Khi một người không còn phù hợp ở một công ty nữa, người đó sẽ được chuyển qua một công ty thành viên khác nằm trong Tập đoàn để có thể tiếp tục làm việc khác phù hợp hơn. Giảm thiểu đáng kể tình trạng thất nghiệp.
- Đẩy mạnh sản xuất sản phẩm chất lượng: Tương trợ, hỗ trợ nhau bằng việc chia sẻ các chính sách thâm nhập thị trường nước ngoài, cải cách chính sách đối ngoại. Các Keiretsu đã thay đổi cách mà các nhà sản xuất vẫn hay làm. Do có quan hệ giữa nhà cung ứng và sản xuất trong chuỗi liên kết, họ nhận được nguyên vật liệu sản xuất rẻ hơn, cộng vào đó là viện trợ máy móc hiện đại của Hoa Kỳ, họ làm ra được những sản phẩm chất lượng, giá rẻ. Từ đó, lấy được lòng tin của các nước Châu Á, Châu Âu và việc giao thương trở nên ổn định và tăng nhanh và hướng tới lợi ích lâu dài.
- Đảm bảo cùng phát triển: Nhật Bản đã xem xét mô hình phát triển của phương Tây, nhưng chúng lại dựa trên nguyên tắc công bằng về sự sống sót của những đơn vị khỏe nhất trong số các đơn vị độc lập. Mỗi đơn vị đều hoạt động vì lợi nhuận trước mắt, chứ không phải vì mục tiêu lâu dài. Nhìn thấy yếu điểm đó, Keiretsu đã cải chính lại mô hình. Mỗi công ty thành viên sẽ sở hữu một lượng nhỏ cổ phần của nhau, do đó thành công hoặc thất bại sẽ là của cả liên minh, chứ không phải là của riêng ai. Keiretsu cũng thúc đẩy các công ty thành viên cùng hợp tác, vừa hợp tác, vừa cạnh tranh chứ không phải bài trừ nhau để đoạt lấy lợi ích trước mắt.
Thay vì các hợp đồng mua bán ngắn hạn (1 năm hoặc chỉ vỏn vẹn 30 ngày như chính sách mô hình của các nước phương Tây), các thành viên của Keiretsu ký kết hợp đồng dài hạn đến 25 năm đối với các nhà cung ứng trong chuỗi liên kết. Tính chất dài hạn của các hợp đồng bảo vệ các thành viên khỏi những cú sốc kinh doanh (chi phí tăng đột biến, hỏa hoạn, thua lỗ). Các ngân hàng trong Keiretsu cung cấp tài chính để hỗ trợ trong trường hợp kinh doanh sa sút, cũng như cho vay ưu đãi để mở rộng.
- Tương trợ lẫn nhau cùng phát triển và tránh bị thôn tính
Từ thời Edo, Nhật Bản đã tăng cường vận tải hàng hóa bằng tàu, mở rộng thương mại nội địa và bắt đầu mua bán với nước ngoài. Mặc dù hoạt động mở cửa giao thương này xảy ra từ sớm khiến nền kinh tế Nhật phát triển nhanh chóng nhưng cho đến nay, nền kinh tế Nhật Bản vẫn không lệ thuộc hoàn toàn vào các công ty nước ngoài.
Một số quốc gia như Mỹ cho rằng các tập đoàn Keiretsu thực hiện hoạt động kinh doanh không công bằng nhằm ngăn chặn sự cạnh tranh nước ngoài. Cùng với xu hướng độc quyền, cấu trúc Keiretsu có thể hạn chế khả năng phát triển và đổi mới của nền kinh tế Nhật Bản. Nhưng vào thời kỳ kinh tế gặp khó khăn, việc đảm bảo không bị thôn tính bởi các công ty nước ngoài là việc hết sức cần thiết.
- Sở hữu cổ phần chéo giữa các thành viên
Ra đời trong những năm 1960 - 1970, khi một số công ty Mỹ phát triển mạnh mẽ và trở thành những gã khổng lồ trong lĩnh vực kinh tế, các Keiretsu đã ngăn kinh tế Nhật Bản khỏi sự tiến công mạnh mẽ của nước ngoài bằng cách sáp nhập và mua lại. Các Keiretsu cho phép sở hữu cổ phần chéo với nhau (không được phép mua bán và chuyển ngượng), các công ty cấu thành nắm giữ cổ phần của nhau, làm tăng khả năng lưu động vốn trong các tập đoàn và tách ra khỏi các nhà đầu tư bên ngoài.
Ngay cả trong thế kỷ 21, cấu trúc cơ bản này vẫn được duy trì, hạn chế tính rủi ro của Keiretsu đối với ảnh hưởng của các nhà đầu tư nước ngoài. Do đó, mặc dù kinh tế Nhật Bản tiếp tục mở cửa nhiều hơn nhưng các nhà đầu tư nước ngoài vẫn không thể chiếm lĩnh hoàn toàn kinh tế Nhật Bản.
Keiretsu được cho là mô hình công ty lý tưởng bởi chúng bao gồm các nhà tài phiệt, làm kinh tế dựa trên nguyên tắc tương trợ, phân cấp và công bằng có nguồn tài trợ vốn lý tưởng từ các ngân hàng. Mặc dù hiện nay Keiretsu đã bộc lộ những hạn chế nhưng không ai có thể phủ nhận vai trò to lớn của Keiretsu đối với sự phát triển của nền kinh tế Nhật Bản.