Tiến sĩ Jay C. Shambaugh, Thứ trưởng Bộ Tài chính Mỹ phụ trách các vấn đề quan hệ quốc tế. Nhiệm vụ của ông là xây dựng các chính sách kinh tế quốc tế của Bộ Tài chính liên quan đến IMF, WB, G7 và G20, các vấn đề về tỷ giá, chính sách khí hậu và quy định tài chính quốc tế, tác động của chính sách tài khóa giữa các quốc gia, cuộc khủng hoảng ở khu vực đồng euro và chênh lệch tăng trưởng khu vực.

Mấy hôm trước tình cờ tôi được đọc bài viết của Shambaugh ngày 10/07/2024 trên trang Bộ Tài chính Mỹ phân tích rất sâu và rộng về vấn đề tình trạng sản xuất dư thừa của Trung Quốc và ảnh hưởng đến kinh tế toàn cầu.

Lược dịch các nội dung đáng chú ý của bài viết. Ai muốn đọc hết nguyên bản xin nhấp link ở đây: Remarks by Under Secretary for International Affairs Jay Shambaugh on Chinese Overcapacity and the Global Economy | U.S. Department of the Treasury

san-xuat-du-thua-cua-trung-quoc-va-anh-huong-den-kinh-te-toan-cau-1727512535.png
 

1. Ba mục tiêu của Mỹ trong tiếp cận kinh tế với Trung Quốc:

No1 - Đảm bảo lợi ích an ninh quốc gia và bảo vệ nhân quyền;

No2 - Hợp tác kinh tế lành mạnh, bình đẳng;

No3 - Hợp tác trong các lĩnh vực có thể và phải làm, chẳng hạn như biến đổi khí hậu.

2.

Trung Quốc có tỷ lệ tiêu dùng thấp dưới 40% GDP, tiết kiệm cao bất thường trong nhiều thập kỷ và đã đạt khoảng 45-50% GDP, chiếm 18% GDP toàn cầu. Phần tiết kiệm ấy được đầu tư vào các ngành công nghiệp trọng điểm thông qua các chính sách, trợ cấp, sự hỗ trợ của nhà nước thúc đẩy các chương trình đầu tư quá mức đã gây ra tình trạng mất cân bằng kinh tế vĩ mô, năng lực sản xuất vượt quá nhu cầu trong nước và không bị ràng buộc bởi nhu cầu toàn cầu.

Cụ thể:

a. Trợ cấp quy mô lớn của chính phủ, đặc biệt là ở cấp địa phương và cấp tỉnh, cho các lĩnh vực công nghiệp chiến lược cụ thể thúc đẩy tình trạng dư thừa công suất.

Trung Quốc chi khoảng 5% GDP cho trợ cấp công nghiệp, gấp 10 lần Mỹ, Brazil, Đức và Nhật Bản. Trung Quốc chiếm 80-90% trợ cấp toàn cầu dành cho các ngành bán dẫn, thép, nhôm.

b. Đầu tư do nhà nước hỗ trợ tăng mạnh vào các ngành công nghiệp và công ty có tầm quan trọng chiến lược, bao gồm việc sử dụng các công cụ chính sách tiền tệ để thúc đẩy các mục tiêu chính sách này. Ước tính hơn 1 nghìn tỷ USD vốn và bảo lãnh đã được cấp cho hơn 28.000 công ty chủ yếu là tư nhân từ năm 2000 đến năm 2018 nhắm mục tiêu cụ thể vào lĩnh vực bán dẫn và lớn hơn cả toàn bộ Đạo luật CHIPS.

c. Khu vực tư nhân của Trung Quốc không chỉ hoạt động thông qua các nguồn lực thị trường mà còn được hỗ trợ từ mạng lưới các ngân hàng nhà nước và các doanh nghiệp nhà nước đóng vai trò là bên tài trợ và khách hàng cho các công ty tư nhân. Có sự gia tăng rõ rệt trong hoạt động cho vay đối với các lĩnh vực công nghiệp, và suy giảm trong hoạt động cho vay đối với các lĩnh vực bất động sản

Trung Quốc đang không dừng lại mà tiếp tục thúc đẩy sản xuất hơn nữa vào các lĩnh vực này để tạo động lực tăng trưởng của Trung Quốc.

3.

Ba bộ chỉ số hoặc "dấu hiệu cảnh báo" của sản xuất dư thừa tại Trung Quốc:

a. Mở rộng năng lực sản xuất tăng nhanh hơn cả những dự báo nhu cầu đầy tham vọng nhất.

Hiện nay năng lực sản xuất các mặt hàng công nghiệp Trung Quốc như thép, pin mặt trời, xe điện không chỉ vượt khả năng tiêu thụ của Trung Quốc mà toàn cầu: sản xuất pin mặt trời vượt quá nhu cầu toàn cầu dự kiến ​​2 đến 3 lần trong vài năm tới, năng lực sản xuất xe điện theo kế hoạch của Trung Quốc vào năm 2030 sẽ đạt hơn 70 triệu xe, trong khi doanh số bán xe điện toàn cầu ước tính chỉ là 44 triệu xe trong năm đó. Tất nhiên số liệu dự báo chỉ là dự báo và có thể thay đổi.

b. Tỷ lệ các công ty thua lỗ và kém hiệu quả tăng cao.

Tỷ lệ các công ty công nghiệp thua lỗ ở Trung Quốc đang ở mức cao nhất trong những năm gần đây và tổng số các công ty công nghiệp thua lỗ đang ở mức cao nhất kể từ những năm 1990. Ngoài ra, các chỉ số về hiệu quả vốn đã giảm trong mười năm qua trên tất cả các phân ngành.

Tỷ lệ các công ty thua lỗ trong ngành công nghiệp ô tô là 28%, vượt xa mức trung bình của toàn nền kinh tế là 20% vào năm 2022.

Nhờ trợ cấp hoặc hỗ trợ khác từ chính phủ và chính quyền địa phương các công ty đó mới có thể duy trì hoạt động.

c. Tỷ suất sử dụng công suất (Capacity Utilization) thấp hoặc giảm mạnh.

Tỷ suất sử dụng công suất thấp kéo dài gây làm giảm lợi nhuận của các công ty và chỉ ra hiện trạng dư thừa công suất.

Q.1 năm 2024 cho thấy tỷ suất sử dụng công suất sản xuất của Trung Quốc đã giảm xuống mức thấp nhất kể từ năm 2016 ở mức 73,8%, tỷ lệ này của các nước OECD khoảng 80%. Tỷ suất sử dụng công suất sản xuất pin mặt trời thành phẩm giảm xuống còn 23% so với hơn 60% của năm trước. IEA ước tính rằng 2023 sản lượng pin của Trung Quốc chỉ chiếm chưa đến 50% tổng công suất sản xuất.

Đối với ô tô, tỷ suất sử dụng công suất cao đỉnh điểm 85% năm 2017 giảm xuống còn 65% trong Q.1 năm 2024, ngay cả khi sản lượng ô tô tăng. Trong khi các công ty hàng đầu như BYD được báo cáo là đang hoạt động ở mức trên 80%. Tỷ suất sử dụng công suất trung bình cho các loại xe năng lượng mới vào năm 2023 là dưới 50%.

Sản lượng và đầu tư tăng cùng với các chỉ số a., b., c. này sẽ cho thấy tình trạng dư thừa năng lực sản xuất.

4.

a. Do tiêu dùng thấp nên Trung Quốc dựa vào thị trường xuất khẩu để tiêu thụ. Khi nền kinh tế Trung Quốc mới mở cửa, thị trường trong nước còn gánh một phần tiêu thụ qua các dự án hạ tầng và bất động sản. Nhưng đến nay Trung Quốc không thể dựa vào tăng trưởng toàn cầu theo cách mà họ đã làm từ 1990 đến 2010 được nữa. Đơn giản là quy mô nền kinh tế này ngày nay đã quá lớn.

b. Kinh tế Trung Quốc, do các chính sách và hoạt động trợ cấp, đã phá vỡ mối liên hệ giữa hành vi của công ty và các lực lượng thị trường, và cho phép các công ty xuất khẩu với mức giá thấp hơn mức mà các đối thủ cạnh tranh trên thị trường có thể cung cấp. Điều này có được do công ty Trung Quốc được hưởng trợ cấp chính phủ khi tăng thị phần.

Do vậy giá xuất khẩu giảm nhanh chóng dẫn đến khối lượng xuất khẩu của Trung Quốc tăng nhanh hơn tổng giá trị xuất khẩu. Xuất khẩu tăng đặc biệt cao đối với xe điện (+20%), pin mặt trời (+30%) và chất bán dẫn (+25%) trong khi giá xuất khẩu giảm đáng kể.

c. Các hoạt động này, bao gồm chương trình “Made in China 2025” của Trung Quốc, đã chuyển hướng khoản tiết kiệm khổng lồ của Trung Quốc vào các lĩnh vực trọng điểm và thành công trong việc thúc đẩy xuất khẩu và ngăn cản nhập khẩu các lĩnh vực chiến lược với những kết quả đáng chú ý: Nhập khẩu đã giảm nhưng còn giảm nhiều hơn ở các lĩnh vực chiến lược. Trong khi xuất khẩu của các lĩnh vực không chiến lược giảm, xuất khẩu của các lĩnh vực chiến lược lại tăng.

5. Hệ luỵ với thế giới

a. Những hoạt động này dẫn đến mất việc làm ở các quốc gia khác, suy giảm khả năng phục hồi kinh tế, mất ổn định xã hội, thị trường bị bóp méo và cạnh tranh không lành mạnh khi sản xuất Trung Quốc không phản ứng với nhu cầu thị trường trong khi Mỹ và nhiều nền kinh tế thị trường khác có động lực phải phản ứng với các tín hiệu thị trường.

b. Sản xuất Trung Quốc chiếm một tỷ trọng ngày càng lớn trong sản xuất toàn cầu - ép các ngành sản xuất của các quốc gia khác phải thu hẹp lại - có thể dẫn đến việc tập trung quá mức vào một số ít nhà cung cấp Trung Quốc.

c. Đặc biệt là khi thặng dư thương mại tăng nhanh, thì tình trạng mất việc làm và giảm lương có thể gây ra thiệt hại lâu dài và đáng kể cho các cá nhân và cộng đồng toàn thế giới, đặc biệt là những người có thu nhập thấp.

Ví dụ, từ năm 2008 đến năm 2013, việc Trung Quốc đẩy mạnh sản xuất pin mặt trời đã góp phần làm giá giảm 80% và dẫn đến tình trạng phá sản và đóng cửa các công ty tại Mỹ và Châu Âu, trong khi sản lượng tấm điện mặt trời của Trung Quốc tiếp tục tăng nhờ 18 tỷ đô la tiền vay dưới giá thị trường. Trong lĩnh vực thép, từ năm 2000 đến năm 2015, Trung Quốc đã tăng công suất sản xuất thép thêm hơn 800 triệu tấn và sản lượng của Trung Quốc đã vượt qua tổng sản lượng của phần còn lại thế giới. Khi mức tiêu thụ của Trung Quốc đình trệ nhưng sản lượng thì tăng đã đẩy giá xuống mức thấp kỷ lục, làm giảm công suất sử dụng của các nhà sản xuất thép nước ngoài và góp phần làm mất gần 100.000 việc làm chỉ tính riêng tại Mỹ.

d. Quy mô của Trung Quốc lớn có nghĩa là sự mất cân bằng của nước này gây ra rủi ro đối với nền kinh tế toàn cầu cũng lớn. Một nền kinh tế nhỏ xuất khẩu theo giá thế giới, nhưng một nền kinh tế lớn – đặc biệt là với vị thế thống lĩnh thị trường – có thể làm thay đổi giá cả toàn cầu và để phần còn lại của thế giới phải giải quyết hậu quả. e. Khi sản xuất của Trung Quốc tăng nhanh hơn nhu cầu của chính họ hoặc của nền kinh tế toàn cầu, phần còn lại của thế giới không thể hấp thụ được sự gia tăng sản lượng sản xuất của Trung Quốc mà không bị buộc phải điều chỉnh. Những điều kiện này sẽ không thể có trong một nền kinh tế thị trường bình thường. Những gì đang diễn ra là sự bóp méo thị trường do chính sách của chính phủ thúc đẩy.

f. Sự mất cân bằng lớn của Trung Quốc có tác động lan tỏa của mình và các chính sách và hoạt động phi thị trường của Trung Quốc khuếch đại tác động này bằng cách bóp méo thị trường, làm suy yếu cạnh tranh công bằng và tập trung tác động lan tỏa vào một số lĩnh vực nhất định. Đặc biệt, sự kết hợp giữa sự mất cân bằng kinh tế vĩ mô dai dẳng của Trung Quốc và sự hỗ trợ quy mô lớn của chính phủ cho các lĩnh vực công nghiệp cụ thể đang trầm trọng hoá tình trạng dư thừa công suất công nghiệp.

6. Kết luận:

-No1: Trung Quốc đã thừa nhận tình trạng dư thừa công suất trong một số ngành và xác nhận tình trạng ấy đe doạ phục hồi kinh tế bền vững, lãng phí tài nguyên và không hiệu quả. Việc kiềm chế tình trạng dư thừa công suất là có lợi cho Trung Quốcl

-No2: Điều ấy trở thành vấn đề toàn cầu. Mỹ cùng với các đồng minh và đối tác sẽ cùng nhau xử lý hạn chế các chính sách của Trung Quốc có tác động tiêu cực đến các doanh nghiệp, người lao động và khả năng phục hồi kinh tế của mình. Các công cụ phòng chống đáp trả thương mại truyền thống có thể không đủ, cần những cách tiếp cận sáng tạo hơn.

-No3: Tốt nhất là Trung Quốc thừa nhận những lo ngại và tự hành động để giải quyết khả năng xảy ra "cú sốc Trung Quốc" thứ hai cho các đối tác thương mại lớn của mình. Tất cả những điều này đều vì lợi ích của Trung Quốc và giảm căng thẳng quốc tế./.

———-----------------------------

1. Tin mới nhất vừa đọc có thể coi là liên quan:

a. Trong 2024 Trung Quốc đã xuất khẩu được 6 triệu ô tô tới hơn 100 nước. Dự sẽ lên 12 triệu xe vào năm 2028. Họ trở thành nhà xuất khẩu ô tô lớn nhất thế giới. Sự tràn ngập của ô tô Trung Quốc đang làm đảo lộn thị phần và lợi nhuận ổn định trong gần 100 năm thống trị ô tô của phương Tây.

Giá trung bình xe do Trung Quốc sản xuất: 19.000 USD - chưa bằng một nửa giá trung bình của một chiếc ô tô mới ở Mỹ và Châu Âu.

Các đối thủ Nhật Bản, châu Âu và Mỹ dường như đang bối rối và choáng trước cuộc tấn công của ngành ô tô Trung Quốc: ai có thể cạnh tranh với giá 19.000 USD?

Ngành ô tô là một trong các ngành cốt lõi. Tất nhiên giá không phải là tất cả. Nhưng Trung Quốc đang cải thiện chóng mặt chất lượng và chuỗi cung ứng ô tô của mình nhờ đủ loại trợ cấp chưa từng có.

b. Các quỹ đầu tư Trung Đông với túi tiền dày cộp cùng nhau kiểm soát hơn 4 nghìn tỷ USD, đang đầu tư vào Trung Quốc trong khi các nhà đầu tư ngoại khác đang rút do lo ngại các căng thẳng địa chính trị. Các công ty bao gồm Adia, Quỹ đầu tư công của Ả Rập Xê Út (PIF) và Cơ quan đầu tư Qatar (QIA) đã hậu thuẫn các giao dịch trị giá 55 tỷ USD trong chín tháng đầu năm 2024, theo dữ liệu từ Global SWF. Lĩnh vực các nhà đầu tư Arab quan tâm là dầu khí, hoá dầu, logistics, tiêu dùng và chăm sóc sức khoẻ, chuỗi bán lẻ, sản xuất chip, trí tuệ nhân tạo, pin xe điện và trung tâm dữ liệu. Dù vậy các khoản đầu tư này cũng không đủ bù đắp các dòng tiền chảy ra khỏi Trung Quốc: các giao dịch nhắm vào các công ty Trung Quốc trong năm nay đã giảm 12% so với năm trước xuống còn 77 tỷ USD (Bloomberg).

Về phần mình các doanh nghiệp Trung Quốc cũng được khuyến khích đầu tư vào Arab Saudi trong các lĩnh vực năng lượng tái tạo, thông tin và truyền thông, kinh tế kỹ thuật số và xanh.

Một xu thế rất kỳ dù không lạ. Rất thú vị.

c. Mỹ đã cử đoàn đàm phán tới Trung Quốc để thảo luận mối quan ngại của Mỹ về chính sách công nghiệp của Trung Quốc. Mỹ kêu gọi Trung Quốc điều chỉnh sự mất cân bằng trong nền kinh tế, tức là giảm năng lực sản xuất, để tránh thua lỗ!!!

------------------------------------------------

2. Mấy nhận xét cá nhân đối với nội dung bài viết:

a. Trong 1 chuyến thăm Trung Quốc cách đây khoảng 15-16 năm, đối tác nói với tôi: “Chúng tôi cứ khủng hoảng là đầu tư vào đường gồm đường bộ đường sắt đường hàng không, cầu cống, cảng… làm công cụ kích cầu cho sản xuất trong nước. Những cái ấy hôm nay chưa cần thì 5-10 năm sau sẽ cần và 50-100 năm sau vẫn dùng”. Chính sách như không hề thay đổi.

b. Chiến lược dùng chính sách tiền tệ nới lỏng tạo vốn đầu tư giá rẻ, cơ chế thu hút FDI rất rắn buộc chuyển giao công nghệ… cho sản xuất tạo nguồn cung; lấy quy mô thị trường rộng lớn, bóc lột tài nguyên do các tiêu chuẩn môi trường lỏng lẻo và nhân công giá rẻ làm sức mạnh cạnh tranh; lấy xuất khẩu và đầu tư công cũng như bất động sản làm cầu, xem nhẹ tiêu dùng trong nước, đầu tư kiểu chiến dịch theo định hướng của nhà nước không chiều theo xu hướng cung cầu đôi khi ngắn hạn, phong trào hời hợt và ngúng nguẩy của thị trường… đã làm nên hiện tượng “cú sốc Trung Quốc" lần 1: Hàng tiêu dùng Made in China tràn ngập thị trường nhờ sơ đồ “Tăng sản xuất hàng=> Giá giảm => Hiệu quả kém => Tăng quy mô => Tăng vay mượn => Giảm giá để tăng bán hàng giảm tồn kho và hưởng trợ cấp chính phủ bù lỗ”. Hiện tượng ấy đang lặp lại với hàng công nghiệp.

Đến nay sơ đồ ấy làm lộ mặt trái của nó và tầm ảnh hưởng khủng khiếp. Các nhà phân tích chắc còn tốn nhiều giấy mực để đánh giá hay dở.

c. Mặt phải của nó là quậy tưng thị trường làm lộ những khoản lợi nhuận chắc chắn không nhỏ của một số đại gia ở vị thế độc quyền trên thực tế bắt tay nhau đè lên đầu người tiêu dùng. Xe máy Trung Quốc là ví dụ. Tất nhiên chất lượng kém nhưng giá quá rẻ đã biến xe máy từ tài sản thành công cụ phục vụ lưu thông thực sự với rất nhiều người nghèo đã buộc các hãng Nhật thống trị thị trường phải đại hạ giá. Và thú vị thay lợi nhuận của họ cũng không suy suyển mấy. Cơ chế chống chuyển giá chưa có nên mới thế. Bây giờ đến lượt hàng hoá Mỹ và châu Âu chăng?

d. “Cú sốc Trung Quốc” lần 2 dường như đã tới với làn sóng hàng công nghiệp giá rẻ… sẽ làm dấy lên các cuộc chiến thương mại khốc liệt với các công cụ ngày càng huỷ diệt, dựng lên các hàng rào bảo hộ ngày càng cao dày và thay đổi trật tự kinh tế thế giới. Bởi bây giờ nó không là đôi giày cái áo mà là các mặt hàng công nghiệp, công nghệ chiến lược tạo xương sống cho các nền kinh tế. Tiếp sau gần như chắc chắn là cuộc chiến tiền tệ.

e. Sản xuất dư thừa bây giờ không còn là vấn đề kinh tế mà đã thành vấn đề chính trị - xã hội không chỉ của Trung Quốc mà toàn cầu. Không phải tình cờ an ninh quốc gia được Mỹ đặt No1 trong nguyên tắc quan hệ Mỹ-Trung. Nhân quyền là quân bài muôn thuở chỉ mở khi cần gây sức ép. No2 chỉ có nếu có No1. No3 chỉ có nếu có No2. Mọi điều bắt đầu từ giữ và thay đổi trật tự của các ông Trùm thế giới.

Thủ tướng Singapore Lawrence Wong tại lễ kỷ niệm 50 năm thành lập Temasek kết luận: “Chúng ta đang bước vào kỷ nguyên mới đánh dấu bằng sự cạnh tranh ngày càng tăng giành quyền thống trị và lãnh đạo giữa Mỹ và Trung Quốc, ngày càng có nhiều hoạt động và lĩnh vực kinh tế được nhìn qua lăng kính an ninh hơn”.

f. Tỷ lệ công ty sản xuất xe điện - ngành non trẻ - thua lỗ 28% so toàn nền kinh tế 20% là khoảng cách không quá lớn. Việc các công ty như BYD vẫn đạt 80% công suất thiết kế chứng tỏ ngành ô tô điện Trung Quốc sẽ có sàng lọc để lớn lên. Điều này đã diễn ra với nhiều ngành khác trước đây. Những công ty sống sót chiếm lĩnh thị phần, các công ty sụp đổ là gạch lót đường.

3.

Thêm một chút bình loạn nữa theo phong cách cảm xúc:

a. Hai cường quốc kinh tế đang bước vào giai đoạn cạnh tranh khốc liệt này phụ thuộc lẫn nhau và có chung một thị trường toàn cầu. Họ như hai gã khổng lồ bị xích vào nhau trên một chiếc thuyền mỏng manh và đang choảng nhau vậy: giữ thuyền khỏi lật quan trọng không kém tham vọng chiến thắng.

Nên mới có chuyện kỳ dị khi một cường quốc kinh tế này khuyên cường quốc kinh tế đối đầu kia thay đổi chính sách kinh tế của mình bởi vì nó không có lợi cho… đối thủ!

b. Ai hưởng lợi trong cuộc chiến?

Câu trả lời chắc rất khác nhau với những quốc gia, những doanh nghiệp khác nhau. Nhưng rõ là cơ hội và rủi ro đang rất lớn.

c. Nửa thế kỷ Trung Quốc lầm lì tích lực tạo thế. Mưu lược, nhẫn, lì đòn. Nay họ công khai thách thức vị thế của nước Mỹ. Nhiều lĩnh vực như ngang cơ.

Mỹ từ khi lập quốc chưa thua cuộc chiến toàn cầu nào. Độc quyền vũ khí tiền tệ, tài chính vững, kinh tế bền, công nghệ sâu, quân sự mạnh, đồng minh nhiều... luôn hành xử kiểu bề trên chủ động đặt luật chơi. Nhưng đọc bài viết này, tôi thấy họ như đang hoảng?!!

-------------------------

Nguồn: Lý Xuân Hải