Theo Học giả Vương Hồng Sển: “Đến nay (1960) các con cháu luôn luôn hòa thuận, gia tài giữ nguyên vẹn, không chia phần manh mún, chỉ cùng nhau chia lợi tức, và mỗi khi cần dùng một số tiền to tát thì người trong họ phải xin chữ ký của người trưởng huynh, khi ấy ngân hàng mới phát bạc (nay gọi là giải ngân)”
 

Kỳ 1: Giai thoại về Chú Hỏa 'vua nhà đất'đầu tiên của Việt Nam -Người sở hữu 30.000 ngôi nhà ở Sài Gòn

Kỳ 2: Sự nghiệp và triết lý kinh doanh của Chú Hỏa ở Sài Gòn

 

Ông bà Huỳnh Văn Hoa có cả thảy 15 người con, trong đó có 4 trai. Người con trưởng tên Huỳnh Trọng Mô 黃仲謨, lúc nhỏ được bác ruột là ông Huỳnh Văn Bỉnh nhận làm con. Người này lúc trẻ từng sang Việt Nam giúp Chú Hỏa trong việc kinh doanh nhưng đã sớm mệnh một khi đang độ trung niên, con cháu của ông vì không nhập Pháp tịch nên ngày càng xa dần nguồn cội.

Người con thứ hai là Huỳnh Trọng Huấn 黃仲訓, tên Tây là Tang-Hung HuiBonHoa, sinh năm 1876 ở Hạ Môn (Phúc Kiến). Ông là cao đồ của danh nho đất Tuyền Châu Lý Thanh Cơ. Sau khi ứng thí đỗ tú tài, ông cưới vợ rồi qua Sài Gòn trợ giúp kinh doanh với cha. Năm 1910, ông tiến hành đầu tư ở cố hương, lập Công ty địa ốc Huỳnh Vinh Viễn đường 黃榮遠堂, xây biệt thự ở Cổ Lãng tự (nay thuộc quận Tư Minh thành phố Hạ Môn tỉnh Phúc Kiến) cho người nước ngoài thuê. Thế chiến II bùng nổ, Nhật chiếm An Nam (cuối 1940), người Nhật nhiều lần mời Huấn tham gia chính trường nhưng ông đều từ chối. Tháng 3-1942, nhà cầm quyền Nhật nghi ngờ Huấn qua lại với chính phủ Tưởng Giới Thạch nên bắt giam ông. Hơn ba năm sau, Nhật Bản đầu hàng Đồng minh (8-1945), ông mới được trả tự do. Huỳnh Trọng Huấn qua đời tại Sài Gòn năm 1951, hưởng thọ 76 tuổi. Ông có vai vế cao nhất gia tộc Hui-Bon-Hoa, và cũng là người thừa kế danh hiệu “Chú Hỏa”.

Người thứ ba tên Huỳnh Trọng Tán 黃仲讚 – Tang-Chanh HuiBonHoa. Sinh năm 1877 tại Tuyền Châu, Phúc Kiến. Sau khi cưới vợ, ông qua Annam hiệp trợ kinh doanh với gia đình. Người này tính tình trầm ổn, có công lớn khuếch trương chuỗi hiệu cầm đồ và kinh doanh bất động sản của Hui-Bon-Hoa nên được mọi người trong gia tộc kính nể. Tán ít khi ra mặt giao tiếp lại mất sớm (1934) nên ít được người ngoài biết đến. Phải vài tháng sau khi Huỳnh Trọng Tán mất, Tạp chí Kinh tế-Tài chính Nam kỳ phát hành số đặc biệt để tưởng niệm và tuyên dương những cống hiến của ông trong nâng cao phúc lợi xã hội cho Nam kỳ, người ta mới biết đến những đóng góp của ông. Thập niên 60, con cháu của Tán dần dần thiên di ra nước ngoài.

Người con trai thứ tư là Huỳnh Trọng Bình 黃仲評 – Thang-Phien Hui-Ban-Hoa, sinh năm 1892. Sinh sau đẻ muộn nên thời trẻ Bình được cho du học, chỉ đến khi ông đã thuần thục (1922) mới tham gia kinh doanh, hỗ trợ Huỳnh Trọng Huấn trong đối ngoại. Sau khi hai người anh mất, Bình thành người quản lý tối cao và kế tục danh hiệu “Chú Hỏa”.

Những năm cuối đời, Huỳnh Trọng Bình giao mọi việc kinh doanh cho Huỳnh Khánh Mi 黃慶楣 (con trai thứ ba của Huỳnh Trọng Huấn), đây cũng là người cuối cùng thừa kế danh hiệu “Chú Hỏa”.

Anh em nhà họ phân công nhau, Huỳnh Trọng Huấn tính tình hào sảng hiếu khách phụ trách đối ngoại giao tiếp với khách hàng, Huỳnh Trọng Tán trầm lặng sâu xa lo việc đối nội quản lý tài vụ. Khi phải về Tàu đầu tư, Huỳnh Trọng Huấn cho xây một cầu mát ở thắng cảnh Nhật Quang nhai của Cổ Lãng tự để tỏ lòng nhớ người em Huỳnh Trọng Tán. Tình cảm anh em của họ sâu sắc trên thuận dưới hòa, nên trong công việc kinh doanh phối hợp cực kỳ ăn ý.

 
Chú Hỏa 2

Ba anh em nhà họ Huỳnh, từ trái qua: Trọng Tán, Trọng Huấn, Trọng Bình.

Năm 1931, khi gia tộc làm lễ “hợp bách tuế” (mừng tuổi của hai trưởng bối Trọng Huấn, Trọng Tán cộng lại tròn trăm), Huỳnh Trọng Huấn nhân dịp này đặt ra bài Huỳnh Vinh Viễn đường mục hành tự 黃氏榮遠堂穆行序:

 

慶元積善 Khánh nguyên tích thiện

和以致祥 Hòa dĩ trí tường

丕基南振 Phi cơ Nam chấn

修業東揚 Tu nghiệp Đông dương

子承孫繼 Tử thừa tôn kế

源遠流長 Nguyên viễn lưu trường

嘉禾文藻 Gia hòa văn tảo

翹首家鄉 Kiều thủ gia hương

(Mừng dòng họ càng thêm người càng chứa điều thiện/ Lấy hòa thuận làm điều cực tốt lành/ Nền tảng lừng lẫy phương Nam/ Công nghiệp rạng rỡ phương Đông/ Con truyền cháu nối/ Gốc vững dòng bền/ Điềm lành đẹp đẽ/ Ngẩng đầu với quê xưa).

 

Chú Hỏa 3

 

Tấm bảng khắc bài “Phả tự thi”  sau hơn 30 năm đã Châu về Hợp Phố.

Đây là loại thơ mà các dòng họ lớn của người Tàu áp dụng để đặt sẵn chữ lót cho con cháu, giúp họ hàng dễ nhận ra và biết vai vế thứ bậc của nhau, còn gọi là “Phả tự thi” 譜字詩. Đời chữ Khánh, tức thế hệ thứ ba của dòng họ HuiBonHoa đã có hơn 50 người, đến thời điểm 1975 đã xuất hiện tên đệm bằng chữ Tích (thế hệ thứ năm). Dòng dõi Chú Hỏa từ đây đâm cành nảy nhánh sum suê thịnh vượng.

Bài thơ này của Huỳnh Trọng Huấn được khắc lại theo thủ bút của ông, treo ở từ đường của Huỳnh Vinh Viễn đường. Sau 1975, tấm bảng khắc Phả tự thi này bị thất lạc từ đó. Hơn 30 năm sau (2007), một người thuộc hàng chữ Nguyên (thế hệ thứ tư) của gia tộc Hui-Bon-Hoa sang Việt Nam cúng phần mộ ông bà, tình cờ gặp lại bảng khắc Phả tự của nhà mình được bày bán bên lề đường đã lập tức mua lại. Tấm biển được mang về Pháp sum họp với con cháu.

Thời hoang kim của hậu duệ

Kể từ sau Đệ nhất Thế chiến, Huỳnh Vinh Viễn đường trở thành “Vua bất động sản” không chỉ ở miền Nam Việt Nam mà cả ở Hồng Kông, Hạ Môn, Đài Loan, Thượng Hải; thậm chí có sản nghiệp ở cả Anh, Pháp. Đó không phải việc sức một người có thể làm được, mà là do toàn gia tộc chung vai gánh vác.

Người sống trong Huỳnh Vinh Viễn đường phải theo gia pháp rất nghiêm. Trai cưới vợ được cấp một nhà lầu 2 tầng cộng 40.000 franc làm vốn, gái lấy chồng được hồi môn một nhà trệt và 20.000 franc (không rõ thời điểm cụ thể, chỉ biết so với bậc lương cao nhất của một công chức người Pháp vào lúc ấy là 8.000 franc/tháng), sau đó tuyệt đối không được can dự gì vào khối tài sản của gia tộc. Ngoài ra, con cháu trong họ được cấp toàn bộ học phí cho đến thành tài. Sau khi ra trường, tùy theo ngành nghề đã học, họ đều được đặt vào vị trí thích hợp để phục vụ cho công ty của gia tộc, lương thưởng theo năng lực cá nhân. Ngay từ ấu thơ, các mãnh hổ Hui-Bon-Hoa đã được dạy rằng nếu không tìm được một chỗ đứng trong công ty của gia tộc mình là sự sỉ nhục lớn.

Vì thỉnh thoảng vẫn có người tự nhận mình là dòng dõi Chú Hỏa, ở đây xin gợi ý vài điểm để kiểm chứng hậu duệ Hui-Bon-Hoa chánh hiệu:

– Phải biết đọc và viết chữ Tàu, vì con cháu Hui-Bon-Hoa tuyệt đối không có hạng thất học và vong bản.

– Phải theo Công giáo, đây là lẽ tất nhiên không cần bàn cãi và cũng không được phép có lựa chọn khác.

– Ngoài họ Huỳnh, còn phải có chữ lót trùng với bài Phả tự thi do Huỳnh Trọng Huấn đặt.

– Không có quốc tịch Việt Nam, vì toàn bộ người của dòng họ này đã rời khỏi Việt nam từ sau 1975.

Từ 1955, Công ty địa ốc Hui-Bon-Hoa đã được Huỳnh Trọng Bình chuyển trụ sở chính qua Paris, chính sách buộc Hoa kiều nhập Việt tịch của Ngô Đình Diệm do đó không hề ảnh hưởng đến dòng họ Pháp kiều này. Tuy vậy, sản nghiệp chính của họ vẫn là ở miền Nam Việt Nam.

Giữa năm 1974, tình hình miền Nam không mấy lạc quan, Huỳnh Khánh Mi cho ngưng mọi hoạt động ở Việt Nam, phần lớn người trong gia tộc được thu xếp cho ra các chi nhánh ở nước ngoài.

Huỳnh gia mộ viên

Năm 1901, ông bà Huỳnh Văn Hoa mất, được an táng ở Tuyền Châu. Lúc bấy giờ, tiếng tăm của nhà cự phú đã lan xa ngoài lãnh thổ Nam kỳ nên bọn trộm mộ đã vài lần “viếng thăm” nơi yên nghỉ của Chú Hỏa. Các “Mô Kim hiệu úy” đã không tìm được gì, bởi Jean Baptiste Hui Bon Hoa vốn theo tín ngưỡng Công giáo nên không theo phong tục tùy táng của cải của người Trung Hoa. Anh trai Tàu năm xưa đến Annam với đôi bàn tay trắng, đến chót đời cũng trắng hai tay khiêm nhường về với Chúa. Ba anh em Huỳnh Trọng từ đó không còn ý định gửi nắm xương tàn của mình về cố quốc nữa.

Năm 1934, Trọng Tán mất. Trọng Huấn chọn một khu đất thuộc Thủ Đức để làm mộ địa cho toàn gia tộc và an táng em mình ở đó. Khu mộ này qua đến thời chế độ cũ được phân địa giới hành chánh thuộc quận Dĩ An, tỉnh Biên Hòa, và được dân Biên Hòa gọi là “Mộ Chú Hỏa”. Khu đất nằm trên đồi cao, đoạn dốc chỗ đó cũng được gọi “Dốc Chú Hỏa”. Cách gọi tắt này khiến nhiều người lầm tưởng đó là mộ riêng của Huỳnh Trọng Huấn, nhưng đây thật ra là nghĩa địa của cả gia tộc Hui-Bon-Hoa. Huỳnh gia mộ viên là một công trình liên hoàn, bố trí trên diện tích hơn 5ha, với đầy đủ các kiến trúc tiêu biểu của một nghĩa trang Phúc Kiến, có cổng chính, miếu Thổ thần, nghĩa từ, nhà bia.

Năm 1951, Trọng Huấn; rồi 1961 đến Trọng Bình lần lượt được an táng nơi đây. Nằm riêng biệt trên ngọn đồi cao nhất ở trung tâm mộ viên là 3 ngôi mộ của anh em Huỳnh Trọng. Mộ phần ba đại phú hào y hệt những ngôi mộ bình thường khác của người Tàu, ngoại trừ văn bia và mộ chí Trọng Tán là do các thợ bậc thầy được mời từ bên Tàu qua phụ trách; toàn bộ điêu khắc ở đây đều do các nghệ nhân Phúc Kiến ở làng đá Bửu Long (Biên Hòa) tạo tác. Hai trụ đá trước mộ Trọng Huấn là đôi liễn:

友于兄弟 Hữu vu huynh đệ

卜共山邱 Bốc cộng sơn khâu

(Anh em hòa thuận/ Chọn chung đồi núi – Câu “Hữu vu huynh đệ” là thành ngữ xuất xứ trong Kinh Thư, thiên Quân Trần, ý nói người bạn đầu tiên trong đời mỗi người chính là anh em của mình).

 
 

 

Mộ Huỳnh Trọng Huấn

Tính đến năm 1975, tổng cộng có tám người thuộc gia tộc Hui-Bon-Hoa (kể cả ba anh em Huấn-Tán-Bình) được chôn cất ở đây.
 
Sau 1975, trước khi rời Việt Nam không hẹn ngày trở lại, gia tộc Hui-Bon-Hoa cấp cho người chăm sóc Huỳnh gia mộ viên một số vốn để đảm bảo người này vẫn tiếp tục nhiệm vụ của mình. Từ năm 1999, Dĩ An được chuyển giao cho tỉnh Bình Dương. Trải nhiều lần xáo trộn hành chánh, người xâm phạm ngày càng đông, đến nay thì khu mộ viên này đã thành một mê cung, nếu không có người hướng dẫn thì không tài nào tìm được nơi yên nghỉ của ba anh em Huỳnh Trọng.
 
Tác giả: Lê Vĩnh Huy