Colombia là nước sản xuất cà phê lớn thứ ba trên thế giới sau Brazil và Việt Nam và là nước sản xuất Arabica lớn thứ hai sau Brazil. Trong 2 thập kỷ qua, người trồng cà phê Colombia đã trải qua hai đợt sụt giảm mạnh hàng năm, trùng với các hiện tượng thời tiết cực đoan. Vào năm 2024/25, sản lượng cà phê Arabica của Brazil được dự báo sẽ tăng nhưng vẫn ở dưới mức cao gần đây khi quá trình phục hồi tiếp tục diễn ra. Sản lượng giảm từ các nhà cung cấp hàng đầu này đã góp phần khiến tồn kho cuối thế giới có xu hướng giảm trong thập kỷ qua do mức tiêu thụ tăng. 

Lần giảm đầu tiên của Colombia bắt đầu vào vụ thu hoạch niên vụ 2008/09 khi mưa lớn làm tăng độ ẩm và tạo điều kiện cho bệnh gỉ sắt cà phê phát triển, dẫn đến tỷ lệ cao quả cà phê chưa phát triển đã bị rụng. Điều này đã tạo ra một môi trường lý tưởng cho sâu đục quả cà phê sinh sôi nảy nở, đồng thời tác động tổng hợp của bệnh gỉ sắt và sự phá hoại của côn trùng đã khiến sản lượng giảm 3,9 triệu bao xuống còn 8,7 triệu bao. Đánh dấu sản lượng thấp nhất kể từ năm 1972/73. Để ứng phó, ngành này đã bắt tay vào một chương trình cải tạo cây tích cực để thay thế cây bằng các giống kháng bệnh gỉ sắt. Chương trình này có tác dụng ngắn hạn là giảm sản lượng cho đến khi những cây này trưởng thành; sản lượng tiếp tục trượt dốc cho đến khi chạm đáy ở mức 7,7 triệu bao trong niên vụ 2011/12. Liên đoàn những người trồng cà phê quốc gia Colombia (FEDECAFE) ước tính gần 85% diện tích cà phê hiện được trồng các giống kháng bệnh gỉ sắt so với chỉ 35% vào năm 2007/08. Chương trình cải tạo đã giảm tuổi trung bình của cây cà phê từ khoảng 15 xuống 7 năm và tăng sản lượng lên gần 30%. Đến niên vụ 2013/14, sản lượng phục hồi lên 12,1 triệu bao. 

Lần giảm sản lượng thứ hai xảy ra trong vụ thu hoạch 2021/22 khi mưa quá nhiều và mây che phủ làm gián đoạn quá trình ra hoa. Điều này khiến sản lượng giảm 1,6 triệu bao xuống còn 11,8 triệu bao, mức thấp nhất trong gần một thập kỷ. Năng suất tiếp tục giảm trong năm 2022/23 do người trồng hạn chế sử dụng phân bón do giá nitơ, phốt phát và kali sau khi Nga tấn công Ukraina đã làm trầm trọng thêm tình trạng cung cấp phân bón vốn đã hạn chế. Sản lượng tăng trở lại lên 12,2 triệu bao vào năm 2023/24 nhờ điều kiện trồng trọt thuận lợi nhưng sản lượng vẫn thấp hơn gần 15% so với bình thường do giá phân bón tăng cao tiếp tục hạn chế việc sử dụng. Trong niên vụ 2024/25, sản lượng cà phê Arabica được dự báo tăng 200.000 bao lên 12,4 triệu bao với năng suất cao hơn một chút nhưng thấp hơn mức cao trước đó do tỷ lệ nhiễm sâu đục thân cà phê tăng.

Tổng quan về cà phê 2024/25

Sản lượng cà phê thế giới năm 2024/25 được dự báo sẽ tăng 7,1 triệu bao so với năm trước lên 176,2 

triệu bao, chủ yếu do sản lượng ở Brazil và Indonesia hồi phục. Với nguồn cung bổ sung, xuất khẩu toàn cầu dự kiến tăng 3,6 triệu bao lên 123,1 triệu bao, chủ yếu nhờ xuất khẩu mạnh từ Indonesia và Brazil. Mức tiêu thụ được dự báo tăng 3,1 triệu bao lên 170,6 triệu bao. 

Sản lượng của Việt Nam được dự báo gần như không thay đổi ở mức 29,0 triệu bao, với hơn 95% tổng sản lượng còn lại là cà phê Robusta. Mùa mưa hơi muộn và nhiệt độ trên trung bình được ghi nhận ở nhiều nơi, ảnh hưởng xấu đến năng suất. Điều kiện tương tự đã làm giảm năng suất và sản lượng của 2 vụ thu hoạch trước. Xuất khẩu được dự báo sẽ giảm gần 500.000 bao xuống còn 24,4 triệu bao do tổng nguồn cung giảm và tiêu dùng nội địa tăng.

Vụ thu hoạch cà phê Arabica và Robusta của Brazil được dự báo tăng 3,6 triệu bao lên 69,9 triệu bao vào năm 2024/25. Sản lượng cà phê Arabica được dự báo sẽ cải thiện 3,3 triệu bao lên 48,2 triệu bao và vụ thu hoạch cà phê Robusta dự kiến sẽ tăng trở lại 300.000 bao lên 21,7 triệu bao. Nhiệt độ cao vào cuối năm 2023 đã khiến một số hoa rụng trong giai đoạn hình thành quả, nhưng lượng mưa thích hợp sau đó đã tạo điều kiện lý tưởng cho giai đoạn phát triển quả cuối cùng và năng suất được tăng lên. Với nguồn cung cao hơn, xuất khẩu cà phê hạt được dự báo tăng 1 triệu bao lên 42,5 triệu bao và tồn kho cuối kỳ dự kiến sẽ tăng gần 700.000 bao lên 3,5 triệu bao.

Sản lượng cà phê Arabica của Colombia được dự báo tăng 200.000 bao lên 12,4 triệu bao với năng suất cao hơn một chút, mặc dù sản lượng dự kiến sẽ thấp hơn mức cao gần đây do tỷ lệ nhiễm sâu đục thân cà phê tăng. Xuất khẩu chủ yếu sang Mỹ và Liên minh châu Âu, được dự báo tăng 200.000 bao lên 10,8 triệu bao do nguồn cung cao hơn.

Sản lượng của Trung Mỹ và Mexico được dự báo tăng 300.000 bao lên 16,6 triệu bao, trong đó cà phê Arabica chiếm 95% sản lượng. Nicaragua dự kiến tăng gần 300.000 bao lên 2,7 triệu bao, trong khi Mexico dự kiến chỉ tăng 30.000 bao lên 3,9 triệu bao. Sản lượng dự kiến không thay đổi ở Costa Rica, El Salvador, Guatemala, Honduras và Panama. Xuất khẩu cà phê trong khu vực được dự báo tăng 500.000 bao lên 13,4 triệu bao, do nguồn cung tăng nhẹ và dự trữ dự trữ giảm. 

Thu hoạch cà phê Arabica và Robusta của Indonesia được dự báo sẽ phục hồi gần 2,8 triệu bao lên 10,9 triệu bao. Sản lượng Robusta dự kiến phục hồi 2,7 triệu bao lên 9,5 triệu USD nhờ điều kiện trồng trọt thuận lợi ở các vùng đất thấp phía Nam Sumatra và Java, nơi có khoảng 75% được trồng. Vụ mùa năm ngoái phải hứng chịu mưa quá nhiều trong quá trình phát triển của hoa và gây ra điều kiện không tối ưu cho quá trình thụ phấn. Sản lượng cà phê Arabica được dự báo tăng nhẹ lên 1,4 triệu bao. Sản lượng tăng dự kiến sẽ đẩy xuất khẩu đạt 2,2 triệu bao lên 6,5 triệu bao. 

Thu hoạch cà phê Arabica và Robusta  của Ấn Độ được dự báo giảm 100.000 bao xuống còn 6 triệu do sản lượng Arabica giảm xuống 1,4 triệu bao do lượng mưa kém trước gió mùa. Sản lượng cà phê Robusta dự kiến không thay đổi ở mức 4,6 triệu trong điều kiện trồng trọt bình thường. Xuất khẩu đậu được dự báo giảm nhẹ xuống 4,2 triệu bao do sản lượng thấp hơn.

Nhập khẩu của Liên minh châu Âu được dự báo tăng 2,0 triệu bao lên 47,5 triệu bao do xuất khẩu cao hơn từ Brazil và Indonesia. Các nhà cung cấp hàng đầu trong năm dương lịch 2023 bao gồm Brazil (36%), Việt Nam (25%), Uganda (8%) và Honduras (7%). Tồn kho cuối kỳ dự kiến sẽ tăng 2,1 triệu bao lên 11,6 triệu bao.

Mỹ nhập khẩu lượng cà phê lớn thứ hai và dự báo  900.000 bao lên 24,5 triệu do mức tiêu thụ tăng. Các nhà cung cấp hàng đầu trong năm dương lịch 2023 bao gồm Brazil (27%), Colombia (19%), Việt Nam (11%) và Guatemala (6%). Tồn kho cuối kỳ được dự báo không thay đổi ở mức 5,7 triệu bao. 

Nhìn chung tình hình sản xuất cà phê niên vụ tới tại hầu khắp các vùng trồng đều cho tín hiệu tích cực về sản lượng cùng với đó nhu cầu tiêu thụ từ 2 thị trường tiêu thị cà phê hàng hầu thế giới là EU và Mỹ đều tiếp tục đà tăng mạnh từ sau đại dịch.

Hiện nay các nhà đầu tư Việt Nam có thể đầu tư cà phê trên sàn ICE EU thông qua Sở giao dịch hàng hóa Việt Nam(MXV), liên hệ 0347516946 để nhận thông tin. Link nhóm tin tức về thị trường hàng hóa:https://zalo.me/g/awzuhk653