Đến sớm được nói to. Dưới đây là các ý chính tôi phát biểu tại buổi toạ đàm của Ủy ban Kinh tế Tài chính của Quốc hội với chủ để đặt hàng là “Chính sách tài khoá và tiền tệ: Cân bằng giữa kích thích và ổn định kinh tế vĩ mô”.

542750468-10163633528987457-4169266900231095074-n-1757058897.jpg
 

———-

I . Ổn định Kinh tế vĩ mô

Điều kiện tiên quyết đối với tăng trưởng cao, bền vững là phải giữ được ổn định kinh tế vĩ mô, thể hiện qua 4 chỉ tiêu định lượng sau:

(1) Giữ được lạm phát ở mức thấp (không quá 4%), bởi vì lạm phát là thứ tước đoạt thu nhập của người lao động/người nghèo nhanh nhất.

(2) Tránh được giá bất động sản tăng phi mã, bởi vì sốt giá BĐS là thứ làm tăng chênh lệch giàu nghèo, gây ra nhiều hệ lụy kinh tế và xã hội (Giá nhà/thu nhập của VN hiện rơi vào khoảng 25 lần, rất cao so với thế giới, vượt khả năng chi trả của người thu nhập trung bình cao).

(3) Ổn định tỷ giá hối đoái (để thúc đẩy thương mại và đầu tư nước ngoài, kiểm soát lạm phát và an toàn nợ nước ngoài)

(4) Đảm bảo tính bền vững của nợ công

Ổn định KTVM là để thúc đẩy tăng trưởng dài hạn, tăng trưởng lành mạnh (dựa trên KHCN và mở rộng chất lượng và số lượng nhân tố sản xuất) sẽ đảm bảo ổn định KTVM. Nếu để mất ổn định KTVM thì mất cả tăng trưởng lẫn ổn định KTVM.

---------

II. Chính sách tiền tệ

Nguyên tắc: Không được dùng chính sách tiền tệ để thúc đẩy tăng trưởng, đặc biệt là liên tục trong thời gian dài (Lý thuyết kinh tế cũng như thực tiễn thế giới cho thấy, nếu làm như vậy, hậu quả chắc chắn sẽ là mất ổn định KTVM).

Chính sách tiền tệ nhiệm vụ chính là bình ổn nền kinh tế, tức là chủ động nới lỏng khi nền kinh tế rơi vào suy thoái/khó khăn và thắt chặt khi nền kinh tế tăng trưởng nóng, khi có dấu hiệu mất ổn định KTVM.

Nhiệm vụ thúc đẩy tăng trưởng dài hạn thuộc về chính sách tài khóa.

Dự địa chính sách tiền tệ cho thúc đẩy tăng trưởng nhưng giữ được ổn định KTVM hiện đã hết, thể hiện qua thực trạng sau:

- Tỷ lệ cung tiền/GDP và tín dụng/GDP vào khoảng 160 và 140%, rất cao so với thế giới. Nền kinh tế và hệ thống tài chính phụ thuộc vào ngân hàng.

- Chênh lệch giữa lãi suất và lạm phát ( = 0), hệ thống NH không huy động được vốn dài hạn, gây mất cân đối và rủi ro hệ thống.

- Chênh lệch giữa lãi suất trong nước và lãi suất USD (âm)

- Dự trữ ngoại hối mỏng và sụt nhanh (giảm từ 110 xuống còn khoảng hơn 70 tỷ USD)

Tiếp tục sử dụng chính sách tiền tệ (thông qua hạ lãi suất, thúc đẩy tín dụng) sẽ gây mất ổn định KTVM, hệ thống ngân hàng không có khả năng huy động vốn dài hạn, khuyến khích hoạt động đầu cơ, làm giảm lòng tin của thị trường (làm giảm đầu tư sản xuất).

NHNN cần có sự độc lập trong việc thực thi chính sách tiền tệ để giữ ổn định KTVM.

Trước khi bỏ hạn mức tăng tín dụng phải hoàn thiện được hệ thống chỉ tiêu đảm bảo an toàn hệ thống và hệ thống thông tin giám sát hiện đại.

-------

III. Chính sách tài khóa

Chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo hướng lấy đầu tư công làm động lực tăng trưởng đòi hỏi nguồn lực ngân sách rất lớn.

Nợ công còn dư địa (35% GDP) nhưng nghĩa vụ trả nợ/thu ngân sách thì không. (Chỉ một dự án đường sắt cao tốc Bắc – Nam là hết dư địa nợ công)

Chi thường xuyên chiếm tỷ trọng lớn (2/3), chuyển đổi mô hình tăng trưởng phụ thuộc vào kết quả của việc sắp xếp tinh gọn bộ máy có giảm được chi thường xuyên không.

Một số nguồn thu chính hiện tại như thuế TNDN, TNCN, VAT, thuế xuất nhập khẩu, đều có ảnh hưởng xấu đến đầu tư, tiêu dùng hoặc gặp hạn chế về nguồn thu.

Thu ngoài thuế phí chiếm tỷ trọng lớn (gần ¼ tổng thu), trong đó thu tiền sử dụng đất chiếm gần một nửa.

Thuế suất của các sắc thuế đều ở mức cao, không thể tăng cao hơn nữa (thu NSNN tăng tốt mấy năm qua chủ yếu là nhờ mở rộng cơ sở thu thuế, nhờ giá hàng hóa và tài sản tăng nhanh, và nhờ thu từ đấu giá đất)

Công cuộc cải cách hệ thống thuế hiện tại không chỉ nhằm tạo nguồn thu, mà phải điều tiết được các hành vi lao động sản xuất, đầu tư và tiêu dùng theo hướng có lợi cho nền kinh tế, tránh được hoạt động đầu cơ gây hại.

- Đánh thuế BĐS bỏ hoang, sở hữu nhiều BĐS, đánh thuế theo thời gian nắm giữ (phù hợp với thông lệ quốc tế, có nguồn thu ổn định để tái đầu tư vào cơ sở hạ tầng, tránh lãng phí tài nguyên, giảm bất bình đẳng, giảm đầu cơ, hướng nguồn lực của nền kinh tế vào những lĩnh vực có lợi, mở ra cơ hội cắt giảm các loại thuế khác)

- Giảm gánh nặng cho thu nhập từ tiền công/tiền lương, thu nhập từ tiền lãi/cổ tức chứng khoán, lợi nhuận doanh nghiệp.

Bài viết chi tiết của các chuyên gia có thể tải từ mã QR ở dưới:

 

544508981-10163633505327457-4183919628724039696-n-1757058897.jpg
 

---------------------

Nguồn: TS Phạm Thế Anh