Khái niệm mà ông ta phát minh ra cách đây hơn 40 năm không gì ngoài mấy chữ: Tín dụng vi mô và Tài chính vi mô. Một mình ông ta đã làm cho quốc gia ông ta giảm được đến tận 10% tỷ lệ đói nghèo trên toàn bộ dân số.

1976, ông Muhammad Yunus là một tiến sĩ kinh tế từ Mỹ trở về, bí kíp đầy mình, ông ta bỗng trở nên thấy lạc lõng, xa lạ, vô nghĩa giữa mớ lí thuyết khô khan, vô hồn khi chứng kiến đồng bào ông chết đói trên vỉa hè hay trước hiên nhà đối diện giảng đường, nơi ông đang giảng dạy.

muhammad-yunus-1754542467.jpg
Ông Muhammad Yunus

Từ nỗi ưu tư đó, ông quyết tâm từ bỏ mớ lý thuyết sách vở, bắt tay vào việc học lại về kinh tế từ thực tiễn cuộc sống của người nghèo.

Một sáng nọ, ông tìm đến làng Jobra, nơi có ngưởi phụ nữ ngồi xổm trên nền nhà cáu bẩn, bên vách tranh xiêu vẹo, hai đầu gối kẹp chặt chiếc ghế tre đan dở. (Ở ta có thành ngữ liên quan đến cách ngồi này, đầu gối trật khỏi vành tai, hay câu Ngồi khòm đầu gối quá tai). Đó là người thầy đầu tiên của ông.

Người thầy đó kể, bà làm việc quần quật từ sáng đến đêm như một nô lệ, nhưng chỉ đủ ăn để tồn tại, còn lại là trả lãi vay để mua nguyên vật liệu tưt 10%/tuần đến 10%/ngày. Các con bà không có bất cứ cơ hội nào để đến trường.

Họ khốn khổ không phải vì họ lười lao động, hay thành quả lao động không tốt, mà ngược lại. Họ làm việc chăm chỉ, cần cù, tháo vát, thông minh, và sản phẩm có tính thẩm mỹ cao. Thứ duy nhất họ thiếu là vốn, nên toàn bộ thành quả sản xuất của họ chỉ đủ cung phụng cho việc trả lãi vay quá mức. Vì họ không có vốn.

Chẳng ngân hàng nào thừa thì giờ cho mấy khoản vay chẳng bộ dính răng. Chưa kể người vay tiên còn phải biết chữ để điền đơn từ và ký tên. Ngân hàng cũng cần tài sản thế chấp, nhưng dân nghèo rớt mồng tơi biết lấy gì để thế chấp.

Từ thực tại đó, ông nhận định rằng, không phải người nghèo muốn mình nghèo mãi, mà chính thể chế và chính sách tạo ra cái nghèo.

Sau khi nghiên cứu hoạt động cho vay của các ngân hàng khác, ông quyết không lặp lại sai lầm của họ. Ông không yêu cầu người vay có tài sản thế chấp hay ký giấy tờ, vì ông không muốn kiện cáo ai cả.

Không có người bảo lãnh

Không có người giới thiệu.

Không có công cụ pháp lý,.

Nhưng.

Vẫn hoat động hiệu quả. Đó là thứ đi ngược lại suy nghĩ của số đông.

Ông quyết định bỏ khoản thanh toán một lần mà hầu hết ngân hàng yêu cầu khi kết thúc kỳ hạn vay. Ông thấy đây chẳng khác nào đòn tâm lý đánh vào người đi vay, họ thường cố gắng trì hoãn trả nợ càng lâu càng tốt - và cục nợ ngày càng to lên - dẫn đến tỷ lệ con nợ quịt nợ vô cùng lớn.

Để khai thông bế tắc này, ông thực hiện chương trình trả nợ mỗi tuần. Số tiền phải trả nhỏ đến mức người vay sẵn lòng trả. Để mọi việc trở nên cực kỳ đơn giản, khoản nợ được thiết kế để trả hết sau một năm.

Ông yêu cầu mỗi người muốn vay nợ phải tham gia nhóm những cá nhân có cùng chí hướng và cùng gia cảnh. Các thành viên trong nhóm không chỉ giúp đỡ nhau, mà còn tăng mức độ khả tín của người vay - nhờ “áp lực người quen”. Mỗi cá nhân muốn vay tiền cần sự đồng thuận từ tất cả thành viên trong nhóm, khiến tất cả cùng có trách nhiệm đạo đức với khoản vay.

Điểm độc đáo ẩn trong mô hình của ông đề ra là tiền để cho rằng sự gắn bó giữa các thành viên trong nhóm có ý nghĩa quan trọng và là “tài sản thế chấp chủ đạo”. Con nợ khó có thể giật nợ bạn bè hay người thân, điều này đảm bảo con nợ sẽ trả tiền.

Một trong những lý do khiến hệ thống ngân hàng ông sáng lập trở nên hiệu quả là người đi vay phải tự lập nhóm và tự quản lý. Người vay tiền phải chủ động giải thích cách ngân hàng vận hành cho cá nhân thứ hai, cho đến khi họ tường minh.

Sau đó, hai người này phải tìm thêm ba người nữa để lập thành nhóm năm người. Nhóm này phải trình diện trước ngân hàng và ban đầu chỉ 2 thành viên được vay. Nếu hai người này thanh toán đều đặn trong 6 tuần kế tiếp, thêm 2 thành viên nữa sẽ được vay. Và chỉ khi cả 3 khoản vay trên được hoàn trả đều đặn trong 6 tuần sau đó thì thành viên thứ 4 của nhóm mới được vay.

Mất từ vài ngày đến vài tháng để ngân hàng chứng nhận một nhóm, và chỉ sau khi tất cả các thành viên tham gia khóa tập huấn bảy ngày về chính sách của ngân hàng và đậu bài thi vấn đáp.

Người đi vay biết rằng nếu rớt, họ không chỉ khiến bản thân thất vọng mà còn kéo theo các thành viên khác mất cơ hội được tiếp cận nguồn vốn.

Kể cả khi nhận được khoản vay, áp lực cũng tương tự, nếu nhóm để cho 1 thành viên quá hạn, thì cả nhóm sẽ bị oánh điểm tín dụng thấp, khả năng tiếp cận lại nguồn vốn không cao, cho đến khi rửa sạch vết nhơ, giờ gọi là CIC ấy. Mặc dù trách nhiêm trả nợ chỉ thuộc về cá nhân, nhưng nợ sẽ đánh điểm số tín dụng lên cả nhóm, điều đó thúc đẩy họ tìm cách kiểm soát lẫn nhau để giữ gìn tín chấp.

Mỗi nhóm phải tạo tài khoản tiết kiệm đặc biệt phòng lúc trái gió trở trời hay cần tiền đầu tư nếu có cơ hội kiếm thêm thu nhập. Mỗi thành viên trích ra 5% khoản vay đóng vào quỹ chung này và bất kỳ thành viên nào trong nhóm đều có thể vay không lãi suất từ quỹ đó, nếu tất cả các thành viên chấp thuận và số tiền này không vượt quá 50% số tiền có trong quỹ.

Tiếp đó, 8 nhóm vay ghép lại thành "trung tâm”, nhóm họp mỗi tuần một lần với nhân viên ngân hàng. Việc trả nợ và gửi tiền được thực hiện trong chính các buổi họp này. Một người đứng đầu được tất cả thành viên bầu để giải quyết mọi vấn đề mà các nhóm không thể tự giải quyết. Ngân hàng buộc nhân viên, người đứng đầu trung tâm và trưởng nhóm phải chịu trách nhiệm trước những người vay.

Đại đa số, 97%, những người tiên phong là nữ giới. Trước khi thành lập ngân hàng, phụ nữ chỉ chiếm chưa đến 1% tổng số người vay ở Bangladesh, chủ yếu do các ngân hàng truyền thống hoàn toàn “bỏ quên” phụ nữ. Người đàn ông đó nhận thấy phụ nữ - có vị trí bấp bênh trong xã hội Bangladesh và toàn thế giới - phải chịu cảnh nghèo đói nghiêm trọng hơn nhiều so với nam giới. Ngân hàng hoạt động dựa trên tiền đề rằng phụ nữ càng nhận được nhiều tín nhiệm, xã hội càng có thể thay đổi nhanh hơn.

Năm 1982, chỉ ba năm sau khi thành lập, ngân hàng từ 500 người vay ban đầu đã tăng lên thành 28.000 người và giải ngân được khoảng 25 triệu đô-la. Năm 1999, con số trên tăng lên thành 190 triệu đô-la, với tỷ lệ trả nợ gần 100%. Năm 2006, ngân hàng giải ngân 8 tỷ đô la với chỉ 720 triệu đô-la dư nợ, và 7,16 tỷ đô-la đã được hoàn trả.

Ngày nay, ngân hàng này đã phân phối hơn 20 tỷ đô-la cho ít nhất 8 triệu người, hầu hết là phụ nữ, tại hơn 100 quốc gia trên thế giới. Tỷ lệ trả nợ vẫn ở mức 98%.

Thống kê cho thấy, 68% người vay từ ngân hàng ông sáng lập và gia đình của họ đã vượt qua ngưỡng nghèo.

Sau 27 năm thành lập, năm 2006, ông được vinh danh và trao giải Nobel … vì Hoà bình.

Năm 2011, 5 năm sau được trao giải Nobel, ông bị buộc … thôi việc tại ngân hàng do chính ông sáng lập, Grammeen quay về thuộc chú phỉnh.

Ông là Muhammad Yunus.

Các cụ có thấy cách tổ chức quản lý người vay bằng tín chấp của các nhóm vay của Yunus giống cách mà Thành Cát Tư Hãn đã tổ chức đội quân bách chiến bách thắng của ông 900 năm về trước không? Quốc gia mà ông quản lý vào thời đó, lớn gấp 80 lần nước ta hiện thời.

Ông tổ chức nền tảng cho đội quân bất khả chiến bại đầu tiên của châu Á trên thế giới bằng các con số tối giản theo cấp số 10, 10 - 100 - 1 ngàn và 10 ngàn.

Chưa hết, 10 người đó phải tổ chức thành một gia đình, thành bại, vinh nhục, sống chết có nhau. Nếu bỏ đồng đội chạy giữ mạng thì hình phạt rất khốc liệt, đè lên cả gia đình, nên tính chiến đấu của các nhóm nhỏ của quân đội Mông Cổ hết sức quật cường. Cứ thế gộp thành làng, xã, huyện với sức cố kết bền chặt và tính nhất quán, linh hoạt không đạo quân nào sánh kịp.

Không có mô tả ảnh.

-------------------------

Nguồn: Le Dung